TÓM TẮT THÁNH KINH
I. CỰU ƯỚC: 46 cuốn
a. Sách lịch sử: 21 cuốn, 5 cuốn đầu gọi
là Ngũ kinh
Sáng thế (50), Xuất hành (40), Lê-vi (27),
Dân số (36), Đệ nhị luật (34), Giô-suê (24), Thủ lãnh (21), Rút (4), 1 Sa-mu-en
(31), 2 Sa-mu-en (24), 1 Vua (22), 2 Vua (25), 1 Sử biên niên (29), 2 Sử biên
niên (36), Ét-ra (10), Nơ-khe-mi-a (13), Tô-bi-a (14), Giu-đi-tha (16), Ét-te
(10), 1 Ma-ca-bê (16), 2 Ma-ca-bê (15).
b. Sách giáo huấn: 7 cuốn
Gióp (42), Thánh vịnh (150), Châm ngôn
(31), Giảng viên (12), Diễm ca (8), Khôn ngoan (19), Huấn ca (51).
c. Sách tiên tri: 18 cuốn: 6 cuốn đầu ngôn
sứ lớn và 12 cuốn sau ngôn sứ nhỏ
I-sai-a (66), Giê-rê-mi-a (52), Ai ca (5),
Ba-rúc (6), Ê-dê-ki-en (48), Đa-ni-en (14), Hô-sê (14), Giô-en (4), A-mốt (9),
Ô-va-đi-a (14 câu), Giô-na (4), Mi-kha (7), Na-khum (3), Kha-ba-cúc (3),
Xô-phô-ni-a (3), Khác-gai (2), Da-ca-ri-a (14), Ma-la-khi (3).
II. TÂN ƯỚC: 27 cuốn, chia làm 3 loại
a. Lịch sử: 5 cuốn: 4 Tin mừng và sách
Cộng vụ tông đồ
Mát-thêu (28), Má-cô (16), Lu-ca (24),
Gio-an (21) và Công vụ tông đồ (28).
b. Sách Giáo huấn: 21 cuốn: 14 thư đầu của
Thánh Phaolô và 7 Thư chung
Rô-ma (16), 1 Cô-rin-tô (16), 2 Cô-rin-tô
( 13), Ga-lát (6), Ê-phê-sô (6), Phi-líp-phê (4), Cô-lô-xê (4), 1
Thê-xa-lô-ni-ca (5), 2 Thê-xa-lô-ni-ca (3), 1 Ti-mô-thê (6), 2 Ti-mô-thê (4),
Ti-tô (3), Phi-lê-môn (25 câu), Do-thái (13), Gia-cô-bê (5), 1 Phêrô (5), 2
Phêrô (3), 1 Gio-an (5), 2 Gio-an (13 câu), 3 Gio-an (15 câu), Giu-đa (25 câu)
c. Sách tiên tri: 1 cuốn
Khải huyền của Thánh Gioan(22).
III. NỘI DUNG CÁC SÁCH
1. Sách Sáng thế (St): Trình bày lịch sử
sơ khai của vũ trụ và nguồn gốc loài người. làm khởi điểm cho hành trình lịch
sử cứu độ, mà Thiên Chúa đã từng bước thực hiện nơi dân tộc Do Thái là dân
riêng của Người.
2. Sách Xuất hành (Xh): Sách xuất hành kể
lại việc Thiên Chúa giải phóng dân Israel thoát khỏi cảnh nô lệ Ai Cập; cuộc
hành trình trong sa mạc và việc Thiên Chúa kết giao ước với dân riêng của Người
trên núi Sinai.
3. Sách Lêvi (Lv): Trình thuật những nghi
thức tế tự, và phong chức các tư tế; những luật lệ liên quan đến việc thanh
sạch và uế tạp; nghi thức về ngày đại xá tội và lời chúc lành, chúc dữ; định rõ
những điều kiện để chuộc người, vật và các thứ khác hiến dâng cho Thiên Chúa.
4. Sách Dân số (Ds): Ghi lại những biến cố
của cuộc hành trình trong sa mạc, cuộc khởi hành trên núi Sinai được sửa soạn
bởi việc kiểm tra dân số; việc đánh chiếm các dân trên đường tiến về đất hứa và
việc định cư tại đất Canaan.
5. Sách Đệ Nhị Luật (Đnl): Đây là bản dân
luật và luật tôn giáo do Môsê soạn tác. Trong sách này ghi lại một phần các lề
luật được ban trên núi Sinai; đồng thời nhắc lại những biến cố chính trong sa
mạc và mặc cho nó một ý nghĩa tôn giáo, hầu thôi thúc dân trung tín với Thiên
Chúa.
6. Sách Giô-suê (Gs): Kể lại cuộc đời của
một vị tướng tên là Giô-suê, từ lúc lãnh đạo dân đánh chiếm Đất hứa và phân
chia đất đai; cho đến những diễn từ cuối đời của Giô-suê, nhất là đại hội tại
Sikhem.
7. Sách Thủ lãnh (Tl): Sách kể lại việc
các chi tộc Israel lập cư ở Canaan, nhất là giới thiệu về hoạt động của những
thẩm phán đã được Thiên Chúa chọn cách đặc biệt để hướng dẫn và giải thoát dân
riêng của Người.
8. Sách Rút (R): Kể về câu chuyện một
thiếu phụ người Mô-áp tên là Rút, chồng ba quê ở Belem sang lập cư ở Mô-áp. Sau
khi chồng chết bà đã trở về Giuđa với mẹ chồng là bà No-ê-mi và đã cưới Bo-as
một người bà con của chồng. Câu chuyện trên đây xây dựng với một mục đích ca
ngợi lòng tin tưởng vào Thiên Chúa là Đấng xót thương cả người ngoại bang. Sự
kiện Rút được nhìn nhận là tổ mẫu của Đavít đã đem lại cho quyển sách một giá
trị đặc biệt, và thánh Má-thêu đã ghi tên bà Rút vào gia phả của Chúa Giêsu.
9. Sách I Sa-mu-en (Sm): Nói về sự ra đời
của vị thẩm phán cuối cùng trong dân tộc Israel có tên gọi là Samuel, mở màng
cho chế độ vương quyền; đồng thời tường thuật về cuộc chiến tranh giải phóng
dân tộc thoát khỏi sự đe doạ của dân Philitinh và dân A-ma-lếch.
10. Sách II Sa-mu-en (Sm): Ghi lại những
kết quả chính trị của triều đại Đavít: quân Philitinh bị đẩy lui vĩnh viễn,
việc thống nhất đất nước được hoàn toàn, Giêrusalem trở thành kinh đô chính trị
và tôn giáo của vương quốc.
11. Sách I Vua (1 V): Sách các vua ghi lại
lịch sử của một dân tộc được Thiên Chúa cứu thoát; đồng thời cũng cho thấy thái
độ vô ơn của dân được tuyển chọn. Sự sụp đổ của dân tộc xem ra đã làm hỏng kế
hoạch của Thiên Chúa; nhưng người ta thấy luôn luôn có một nhóm trung tín không
chịu quỳ gối trước Ba-an, một số sót của Si-on trung tín với giao ước của
Giavê.
12. Sách II Vua (2 V): Ghi lại những nét
thăng trầm của lịch sử Israel, sự xuất hiện can thiệp của các tiên tri đối với
các vua, giúp cho dân chúng thức tỉnh tinh thần quốc gia và cuộc cải cách tôn
giáo. Sự sụp đổ Giêrusalem và đợt đi đầy thứ hai.
13. Sách I và II Sử biên niên (Sb): Là
cuốn sách ghi lại những sự việc của Do Thái giáo vào thời kỳ sau lưu đầy trước
năm 300. Tác giả là một người Lêvi nhắc lại cho những người dân cùng thời rằng:
đời sống của dân tộc tuỳ thuộc vào sự trung thành với Thiên Chúa. Việc trung
thành này hệ tại ở việc tuân giữ lề luật của Chúa và bằng việc phụng thờ Thiên
Chúa với lòng đạo đức chân thật.
14. Sách Ét-ra (Er) và Nơ-khe-mi-a (Nkm):
Là sách miêu tả sự trở về Giêrusalem giữa những đổ nát sau cuộc lưu đày, việc
xây dựng lại thành thánh và cộng đoàn. Hơn thế nữa, tác giả xác tín rằng đền
thờ là dấu chỉ hiện hữu của Thiên Chúa. Cho nên, con người phải biết lo chu
toàn việc phụng thờ Thiên Chúa. Ét-ra và Nơ-khe-mi-a là hai vị lãnh đạo đã khôi
phục lại Giêrusalem, đền thờ, luật Môsê, việc phụng tự và sự trung thành với
nòi giống.
15. Sách Tô-bi-a (Tb): Là một câu chuyện
gia đình Ninivê được Thiên Chúa quan phòng yêu thương. Qua đó tác giả muốn khai
triển một ý niệm rất cao trong tinh thần Kitô giáo về hôn nhân: nếu tin tưởng
và sống theo đường lối của Thiên Chúa thì sẽ được Ngài che chở và yêu thương.
16. Sách Giu-đi-tha (Gđt): Sách Giu-đi-tha
là câu chuyện về một cuộc toàn thắng của dân Israel trên quân thù là đế quốc
Assur, qua sự can thiệp của một người đàn bà tên là Giu-đi-tha. Sự toàn thắng
của Giu-đi-tha là phần thưởng cho lời cầu xin và việc tuân giữ luật thanh sạch.
Sàch đã được viết tại Phalêtin vào giữa thế kỷ thứ II trước công nguyên.
17. Sách Ét-te (Et): Kể chuyện một cuộc
giải thoát nhờ một người đàn bà tên là Ét-te. Dân Do thái tại đế quốc Batư bi
đe doạ tiêu diệt do sự ghen ghét của quan Đại Thần tên là Aman, nhưng đã được
cứu thoát nhờ sự can thiệp của Ét-te; một người đồng hương đã trở thành Hoàng
Hậu được người cậu là Marđôkê hướng dẫn. Một sự đảo lộn tình thế diễn ra: Aman
bị treo cổ, Marđôkê thay chỗ, người Do thái tàn sát kẻ thù.
18. Sách I Ma-ca-bê (I Mcb): Tác giả
Macabê là một người Do thái nhiệt thành với lòng tin vào Thiên Chúa, đã xem
những khốn cùng và thất bại của Israel như một trừng phạt tội lỗi mà lòng xót
thương của Thiên Chúa muốn dùng sửa trị dân; đồng thời tác giả coi những thành
công của các nhân vật là do sự trợ giúp của Thiên Chúa.
19. Sách II Ma-ca-bê (II Mcb): Không phải
là một tác phẩm tiếp theo của Ma-ca-bê I. Sách kể lại cuộc chiến tranh giải
phóng do Giu-đa Ma-ca-bê lãnh đạo, được ơn thiêng liêng nâng đỡ và toàn thắng
nhờ sự can thiệp của Thiên Chúa. Sách Ma-ca-bê II quả quyết về vấn đề người
chết sống lại, những hình phạt đời sau, lời cầu nguyện cho kể chết và công
trạng của những người tử vì đạo.
20. Sách Gióp (G): Sách kể về cuộc đời của
một con người có tên là Gióp, đã bị thử thách trăm triều: trước sự tấn công của
Satan, của gia đình, của bạn bè. Nhưng ông đã vượt thắng được tất cả nhờ có
lòng tin tưởng tuyệt đối vào sự quan phòng của Thiên Chúa tình yêu.
21. Thánh vịnh (Tv): Thánh vịnh là những
lời cầu nguyện của Cựu ước. Chính Thiên Chúa đã gợi lên những tâm tình con cái
Người phải có đối với người, và cũng là những lời con người phải dùng để ngõ
cùng Thiên Chúa.
22. Sách Châm ngôn (Cn): Nói về việc Thiên
Chúa ân thưởng sự chân thật, bác ái, sự trong sạch của lòng trí, và đức khiêm
nhường; đồng thời Chúa cũng xử phạt những ai sống giả dối, ích kỷ, kêu ngạo và
lòng trí xấu xa. Nguồn gốc và tóm lược của tất cả các nhân đức là sự khôn
ngoan.
23. Sách Giảng viên (Gv): Ghi lại những
lời của Cohelet con của Đavít vua Gierusalem. Trước những hiểu biết, của cải,
tình yêu và sự sống; tất cả điều làm cho con người thất vọng khi đứng trước sự
chết. Nhưng Cohelet không ngỡ ngàng trước thế thái nhân tình đó, vì mọi sự đều
do Thiên Chúa qui định và con người phải đón nhận từ bàn tay Ngài những thử
thách cũng như những vui mừng; con người phải tuân giữ các lệnh truyền và kính
sợ Thiên Chúa.
24. Sách Diễm ca (Dc): Được xếp vào loại
sách khôn ngoan, vì đã đề cập tới như những sách khôn ngoan khác, thân phận của
con người. Đến một trong những khía cạnh cốt thiết của con người. Theo cách
diễn tả của mình. Diễm ca giáo dục người đọc về sự tốt lành và phẩm giá của
tình yêu giữa người nam và người nữ.
25. Sách Khôn ngoan (Kn): Salômôn được kể
là tác giả của sách. Ong đã nêu lên vai trò của khôn ngoan trong vận mệnh con
người và so sánh số phận của người công chính với kẻ gian ác, trong cuộc sống
sau khi chết. Ong cũng trình bày về nguồn, bản chất của khôn ngoan và những
cách thức thu thập khôn ngoan. Cuối cùng ông đã ca ngợi hành động khôn ngoan
của Thiên Chúa trong lịch sử dân Israel.
26. Sách Huấn ca (Hc): Là quyển sách nói
về sự khôn ngoan của Thiên Chúa do Ben Sira rao giảng. Khởi đầu của khôn ngoan
là kính sợ Thiên Chúa, khôn ngoan đem lại tươi trẻ và hạnh phúc. Ben Sira tin ở
sự thưởng phạt, cảm thấy tầm quan trọng bi đát của giờ chết; nhưng ông chưa
biết Thiên Chúa sẽ trả lại cho mọi người theo hành động của họ thế nào? Tác giả
đã đồng nhất khôn ngoan với lề luật được Môsê loan báo.
27. Sách Ngôn sứ Isaia (Is): Tiên tri
Isaia luôn ý thức về sứ vụ ngôn sứ của Chúa trao cho ông trong đền thờ. Ong
sống niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa là Đấng Thánh, Đấng Quyền Năng, là Vua.
Ong luôn hy vọng vào “số sót” trong dòng tộc Đavít sẽ được Thiên Chúa yêu
thương cứu chuộc.
28. Sách Ngôn sứ Giê-rê-mi-a (Gr): Đây là
một bộ tự thuật của tiên tri Giêrêmia đã mạnh mẽ giống tiếng cảnh tỉnh dân tộc
của mình phải trung thành với Thiên Chúa không được chạy theo các thần ngoại
lai; đồng thời ông cũng can đảm vạch rõ những lỗi lầm bất tài của vua Israel.
Mặc dù sứ vụ Giêrêmia đã thất bại lúc sinh tiền, nhưng dung mạo của ông vẫn
không ngừng lớn lên sau khi ông chết.
29. Sách Ai-ca (Ac): Sách Ai-ca dành cho
ngày kỷ niệm đền thở bị phá huỷ; gồm các bài “điếu tang”, than khóc cánh. Đây là
những lời than khóc cảnh hoang tàn và bi đát của thành Giêrusalem. Chính lòng
trông cậy kiên vững vào Thiên Chúa trong nỗi đau đớn tuyệt vọng của con người
làm nên giá trị bất hữu của những bản ai ca này.
30. Sách Ê-dê-ki-en (Ed): Đây là bộ sách
ghi lại cuộc đời và sự nghiệp của một vị tiên tri sống trong thời kỳ lưu đầy.
Qua những thử thách kinh nghiệm riêng tư mà Thiên Chúa đã gởi đến cho ông, cũng
là những dấu chỉ cho dân Israel. Ong loan báo Đấng Mêssia sẽ đến thưởng phạt
xét xử tuỳ theo việc làm của mỗi người.
31. Sách Đa-ni-en (Đn): Sách có mục đích
nâng đỡ lòng tin và niềm cậy trông của các người Do Thái bị Antiôkhô Ephiphanê
bách hại. Đanien và các bạn của ông đã trải qua những thử thách như họ; nhưng
các ông đã vượt thắng và những kẻ ra tay bách hại đã phải nhìn nhận quyền năng
Thiên Chúa đích thực.
32. Sách Ba-rúc (Br): Cho chúng ta biết về
đời sống tôn giáo của người Do thái ở các cộng đoàn hải ngoại và ảnh hưởng mạnh
mẽ của ngôn sứ Giê-rê-mi-a đối với dân Do thái sau biến cố thảm khốc mất thành
thánh.
33. Sách A-mốt (Am): A-mốt là một mục tử
tại Tơqoa được Thiên Chúa sai đi nói tiên tri dưới thời Giêrôbôam II (783-743).
Nhân danh Thiên Chúa, Amốt đã lên án cuộc sống của những người dân thành thị,
những bất công xã hội, những nghi lễ không hồn. Thiên Chúa sẽ sửa phạt và Ngài
sẽ cứu thoát nhà Giacóp.
34. Sách Hô-se (Hs): Hô-sê quê ở phía bắc
sinh sống cùng thời với Amốt. Hô-sê là người đầu tiên đã diễn tả những liên lạc
giữa Giavê và Israel trong ngôn ngữ của một cuộc hôn nhân. Ong nhấn mạnh về
tình thương Thiên Chúa không được dân Người đón nhận hay đã được đáp lại bằng
những bội phản.
35. Sách Mi-kha (Mk): Là người Giuđa quê ở
Môrêshêr ông thi hành sứ vụ tiên tri trong những năm 712-701. Mikha có một ý
thức rõ rệt về ơn gọi tiên tri của mình, ông loan báo những tai ương xảy tới do
tội tôn giáo và tội luân lý. Nhưng Mikha vẫn hé mở hy vọng về sự cứu thoát của
Giavê.
36. Sách Xô-phô-ni-a (Xp): đã rao giảng
dưới triều đại Yôsya 640-609. Ong loan báo về hình phạt Giavê sẽ giáng xuống
trên dân Israel về lỗi lầm tôn giáo và luân lý do lòng kiêu ngạo và bất phục
tùng; nhằm đưa dân về lại con đường vâng phục và khiêm tốn. Sự cứu rỗi chỉ được
hứa ban cho một “số sót” khiêm tốn.
37. Sách Na-khum (Nk): Thi hành sứ vụ tiên
tri trong khi dân Israel đánh chiếm Ninivê 612. Sự sụp đổ của Ninivê là một án
Thiên Chúa phạt kẻ phá hoại kế đồ của Người. Lời tiên tri nói thay lòng căm tức
của Israel đối với kẻ thù truyền kiếp là Assur; đồng thời nói về sự công chính
và lòng tin của dân đối với Thiên Chúa.
38. Sách Kha-ba-cúc (Kb): Thi hành sứ vụ
tiên tri đồng thời với Nakhum và Giêrêmia, Habacúc đã đem lại một nét mới mẻ
trong cách giáo lý của các tiên tri; Thiên Chúa toàn năng chuẩn bị cho sự toàn
thắng cuối cùng của kẻ chính trực công chính sẽ được sống bằng sự trung tín của
mình.
39. Sách Khác-gai (Kg): Nói những lời
khích lệ với dân Israel trong việc khôi phục lại đất nước sau thời lưu đầy vào
khoảng tháng 8 tới tháng 12 năm 520. Việc xây dựng đền thờ sẽ đem lại kỷ nguyên
của thịnh vượng và là điều kiện để Giavê ngự đến ở với dân Người. Như thế thời
cứu chuộc cánh chung đã hé mở.
40. Sách Da-ca-ri-a (Dcr): Viết sách vào
khoảng từ tháng 10 năm 520 đến tháng 2 năm 519. Ong chú trọng đến việc tái
thiết đền thờ; nhưng ông cũng nhấn mạnh đến việc tái thiết quốc gia bằng sự
tinh sạch và luân lý. Dacaria cũng loan báo cách bí nhiệm về sự phục hưng của
nhà Đavít và về Đấng bị đâm thâu.
41. Sách Ma-la-khi (Ml): Thi hành sứ vụ
tiên tri vào những năm 514-445. Malakhi nói đến hững lỗi lầm về tế tự và tín
hữu; nạn hôn nhân dị biệt và ly dị đồng thời ông cũng loan báo về ngày Giavê sẽ
thanh luyện những kẻ gian ác và ban phần thưởng cho những người công chính.
42. Sách Ô-va-đi-a (Ôv): Là sách ngắn nhất
trong các sách tiên tri chỉ có 21 câu. Ong loan báo về hình phạt E-đom và lời
hứa Thiên Chúa sẽ cứu độ trong ngày chung thẩm.
43. Sách Giô-en (Ge): Xuất hiện sau thời
lưu đầy, ông loan báo nạn cào cào châu chấu sẽ tàn phá Giuđa đưa đến một nghi
lễ phụng vụ tang chay và khẩn nài; ông cũng nói về cuộc phán xét các dân tộc và
sự toàn thắng của dân Israel.
44. Sách Gio-na (Gn): Sách ghi lại câu
chuyện của một tiên tri bất tuân muốn tránh sứ vụ tiên tri của mình. Sách có
mục đích giáo huấn cho những đe doạ là những biểu hiện của lòng thương xót của
Thiên Chúa, Đấng chỉ chờ một dấu hối cải để ban ơn tha thứ.
45. Tin Mừng Mathêu (Mt): Nói về gốc tích
và những năm tháng đầu đời của Chúa Giêsu và Ngài đi rao giảng Tin mừng Nước
Trời, các mầu nhiệm Nước Trời cũng như Nước đã gần đến. Cuối cùng là nói đến
cuộc thương khó và phục sinh của Ngài.
46. Tin Mừng Macô (Mc): Tường thuật lại sự
kiện Giáng sinh và thời thơ ấu của Chúa Giêsu; nhắc đến sứ mạng dọn đường của
Gioan Tẩy Giả và việc Chúa Giêsu chịu phép rửa và chịu cám dỗ. Ngoài ra, Thánh
sử Mácô nhấn mạnh đến sự tương quan của Chúa Giêsu với mọi người và hé mở mầu
nhiệm Con Người Đức Kitô, đến trần gian diễn tả tình yêu qua biến cố tử nạn và
phục sinh.
47. Tin Mừng Luca (Lc): Tin Mừng Thánh
Luca đặc biệt nhấn mạnh đến lòng thương xót, bao dung, tha thứ của Đức Kitô.
Đặc biệt là các giáo huấn của Chúa Giêsu về việc ăn năn sám hối, cầu nguyện và
sống bác ái yêu thương; đồng thời Luca cũng gieo rắc niềm vui trước lời loan
báo ơn cứu độ, trước các phép lạ, những lần Chúa Giêsu hiện ra; Chúa Thánh Thần
hoạt động trong Giáo Hội. Đặc biệt nơi Luca chan chứa hoan lạc vì ơn cứu độ đã
có được ngày hôm nay.
48. Tin Mừng Gioan (Ga): Khác với Tin Mừng
nhất lãm, Gioan muốn chứng minh Đức Giêsu là Ngôi Lời của Thiên Chúa đã hiện
hữu ngay từ lúc khởi đầu, là nguồn mạch sự sống của nhân loại, là ánh sáng thật
đến giữa thế gian, là Đấng mạc khải cho nhân loại biết khuôn mặt đích thực của
Thiên Chúa Cha. Thêm vào đó, Chúa Giêsu sử dụng ngôn ngữ của con người trong
quyền năng của một Thiên Chúa, để mở cho nhân loại thấy tình yêu và lòng thương
xót của Thiên Chúa, cũng như sự sống đời đời được khai mở nơi chính Ngài.
49. Sách Công vụ tông đồ (Cv): Tường thuật
những hoạt động truyền giáo của hai vị thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô. Vì vậy,
có thể so sánh Công vụ tông đồ là sách lịch sử về Hội thánh sơ khai; đồng thời
tác giải yêu cầu đế quốc Rôma nhìn nhận Kitô giáo được tự do về mặt tôn giáo và
có quyền bình đẳng với các tôn giáo khác trong đế quốc.
50. Thư gởi tín hữu Rôma (Rm): Đang khi
rao giảng ở Côrintô thánh Phaolô được ông Aquila và bà Picilia cho biết về tình
trạng của giáo đoàn Rôma. Thánh nhân đã viết thư gởi cho tín hữu với nội dung:
Tin mừng là sức mạnh Thiên Chúa dùng để cứu độ mọi người, trước là người Do
thái sau là người Hy lạp và ngài nêu lên một số điểm thực hành cho các tín hữu.
51. Thư I & II gởi tín hữu Cô-rin-tô
(Cr) Thánh Phaolô thành lập giáo đoàn Côrintô trong chuyến chuyền giáo thứ hai
khoảng năm 50-52. Vì đức tin kitô hữu còn non trẻ cần tìm một mảnh đất mầu mở
Kitô giáo để có thể lớn lên. Thánh Phaolô đã hướng dẫn các tín hữu ý thức hội
nhập đức tin kitô giáo vào nền văn hoá ngoại giáo.
52. Thư gởi tín hữu Ga-lát (Gl): Sau khi
thánh Phaolô rời Galát, các tín hữu gốc Do thái từ Giêrusalem đến làm lung lạc
đức tin của anh em tín hữu gốc lương dân. Họ đòi buộc các tín hữu phải giữ luật
Môsê, nhất là luật cắt bì. Cho nên, thánh Phaolô viết thư biện minh về sứ vụ
tông đồ của mình và tuyên bố ơn công chính không do làm việc luật dạy, nhưng là
bởi lòng tin vào Chúa Giêsu Kitô, đồng thời ngài khuyên các tín hữu bám chặt
vào Chúa Giêsu sống theo ơn Chúa Thánh Thần, nhất là sống bác ái.
53. Thư gởi tín hữu Ê-phê-sô (Ep): Thánh
Phaolô trình bày mầu nhiệm Thiên Chúa thực hiện chương trình cứu độ, mà Người
đã sắp đặt từ bao đời trước. Mầu nhiệm quy tụ muôn loài dưới quyền Thủ Lãnh là
Đức Kitô. Kêu gọi chiêm ngưỡng công trình Thiên Chúa thực hiện qua Đức Kitô và
khuyên đọc giả sống kết hiệp với Đức Kitô.
54. Thư gởi tín hữu Phi-li-phê (Pl): Đây
là một trong những bức thư chan chứa tình cảm. Thánh Phaolô viết trong lúc Ngài
bị cầm tù, ngài vui mừng và hoan lạc trong cảnh tù đầy của mình; đồng thời
Thánh nhân khuyên giáo đoàn Philiphê sống đức tin vững vàng, hiệp nhất với nhau
và đề phòng những người không trung tín với Tin mừng.
55. Thư gởi tín hữu Cô-lô-xê (Cl): Trong
khi thánh Phaolô đang bị cầm tù ở Rôma, nhận được tin giáo đoàn Côlôxê đang bị
đe doạ đời sống đức tin. Thánh nhân viết thư đề cao quyền tối thượng của Chúa Kitô
và khuyên nhủ các tín hữu đề cao cảnh giác đối với những người gieo rắc những
sai lầm. Ngài nhắc lại một số điểm cần thực hiện trong gia đình, cộng đoàn và
xã hội.
56. Thư I gởi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca
(Tx): Vào khoảng năm 50 khi thánh nhân ở Côrintô, nhận được tin giáo đoàn
Thêxalônica đã gặp những điều cần giải quyết về luân lý cũng như giáo lý Chúa
quang lâm. Với những lời đậm đà tình thương nhưng rất đanh thép, đã củng cố
được đức tin non yếu của tín hữu, đồng thời khẳng định về giáo lý Chúa quan lâm
cho những người Do thái cứng lòng tin.
57. Thư II gởi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca
(Tx): Thánh Phaolô viết thư trấn an và chỉnh đốn cộng đoàn về việc chờ đợi Chúa
quang lâm. Thánh nhân khẳng định phải có những dấu hiệu báo trước khi Chúa đến
; những cuộc khủng bố bắt bớ các kitô hữu; tiếp theo là bỏ đạo quy mô, sau cùng
là tên gian ác xuất hiện.
58. Thư I gởi ông Timôthê (Tm): Sau khi ra
khỏi tù ở Rôma đã viết thư này gởi cho người đồ đệ thân tín mà thánh nhân đã
đặt lên thay ngài coi sóc giáo đoàn. Nội dung lá thư đưa ra những chỉ dẫn giúp
Timôthê tổ chức, điều khiển cộng đoàn và khuyên trung thành với giáo lý.
59. Thư II gởi ông Ti-mô-thê (Tm): Viết
vào năm 67 gởi cho ông Timôthê. Đây là một lá thư mục vụ, thôi thúc những ai có
trách nhiệm trong cộng đoàn hãy kiên trì chịu thử thách, hăng hái rao giảng Tin
mừng và chống lại những người dạy giáo lý sai lạc với luân lý, tín lý, niềm
tin.
60. Thư gởi ông Ti-tô (Tt): Trước những
bức xúc của người lãnh đạo cộng đoàn, thánh Phaolô viết thư gởi cho Titô, một
tín hữu gốc Do thái và bạn đồng hành với Phaolô. Trong lá thư mục vụ, thánh
nhân nhấn mạnh những đức tính cần có của người đứng đầu cộng đoàn; đồng thời
nhắc nhở các tín hữu về bổn phận của họ.
61. Thư gởi ông Phi-lê-môn (Plm): Ong
Philêmôn là một nhân vật quan trọng ở Côlôxê, là người khá giả đã trở lại theo
đức tin Kitô giáo, biết đem của cải và uy tín để giúp đỡ cộng đoàn. Ong Phaolô
quý mến và gọi ông là cộng sự viên. Trong thư ông Phaolô tế nhị, không áp đặt,
không truyền lệnh ông Philêmôn nhận người nô lệ ăn cắp Onênximô như một người
nhà trong tình yêu Đức Kitô.
62. Thư gởi tín hữu Do thái (Dt): Thời
gian đầu cộng đoàn kitô hữu gốc Do thái (Do thái giáo qua Kitô giáo) gặp khủng
hoảng, đức tin hoang mang. Tác giả viết thư này nhằm trấn an, củng cố đức tin,
nền tảng đạo đức và sự canh tân đời sống đức tin chính là Đức Kitô.
63. Thư của Thánh Gia-cô-bê (Gc): Thư này
nhằm mục đích đến luân lý, thánh nhân nhấn mạnh đến cách cư xử giữa người với
nhau, khuyên giữ miệng lưỡi, kiên tâm bền chí khi bị thử thách để chứng minh
niềm tin, đồng thời coi trọng người nghèo.
64. Thư thứ I của Thánh Phêrô (1 Pr): Giữa
lúc các Kitô hữu bị lưu vong sang đế quốc Rôma, số tân tòng ngày một đông,
thánh Phêrô viết thư nhằm khuyên nhủ, động viên và hướng dẫn đời sống đức tin
cho những anh chị em tín hữu gia nhập đạo; đồng thời ngài nhấn mạnh bổn phận
người Kitô hữu với Hội Thánh.
65. Thư thứ II của Thánh Phêrô (2 Pr): Qua
những thăng trầm đức tin, tác giả hướng đến các tác giả sơ khai khám phá và
sống theo chân lý, đó là: người tín thông phần vào sự sống của Chúa Kitô, được
Chúa dạy dỗ qua các ngôn sứ, tông đồ.
66. Thư I, II, III của Thánh Gioan (Ga):
Khi thấy giáo đoàn tín hữu sơ khai một số tác gieo rắc những học thuyết sai
lạc. Thánh Gioan viết thư 1 và 2 nhằm chống lại những người lạc đạo đó; đồng
thời giúp các tín hữu đề phòng những người theo thuyết ngộ đạo, bằng việc sống
bác ái yêu thương. Trong lá thư thứ 3 tác giả nói đến cách sống và cư xử của
người tín hữu.
67. Thư của Thánh Giuđa (Gđ): Khi các tín
hữu Do thái trở lại đạo Công giáo, vì niềm tin còn non yếu, họ bị gieo rắc
những tư tưởng ngược với niềm tin Kitô giáo. Trước tình hình đó, Thánh Giuđa đã
viết bức thư dặn dò anh em tín hữu sơ khai đừng nghe theo một số người xấu, đã
len lỏi vào các cộng đoàn, gieo rắc lối sống và tư tưởng sai lạc.
68. Sách Khải huyền (Kh): Giữa lúc các tín
hữu sơ khai đang bị hoàng đế Nê-rô bách hại. Một số các tín hữu chán nản thất
vọng trước cơn bách hại và dường như muốn đầu hàng. Tác giả đã dùng thể văn
khải huyền với loại ngôn ngữ biểu tượng và đầy hình tượng; ông đã khuyên nhủ
các tín hữu phải sống dũng cảm, củng cố đức tin, niềm trông cậy và lòng trung
thành của họ với Đức Kitô và thời đau khổ sắp chấm dứt.
CÓ THỂ BẠN MUỐN XEM
CÓ THỂ BẠN MUỐN XEM
No comments:
Post a Comment