Thursday, November 29, 2018
Kinh Rước Lễ Thiêng Liêng - Ngài Gọi Con Blog
”Lạy Rất Thánh Trái Tim Đức Chúa GIÊSU, bởi Chúa hằng muốn kết hiệp cùng con trong phép Thánh Thể, nên lòng con khát khao ước ao rước Chúa ngự vào lòng con lắm, song bây giờ con chẳng được rước thật Mình thánh Máu thánh Chúa, thì ít nữa là xin Chúa hãy ngự vào lòng con cách thiêng liêng. Lạy Chúa xin hãy ngự vào lòng con!”
Tuesday, November 13, 2018
[ Ngài Gọi Con ] __ Những giọt nước mắt của Mẹ
Đang bán gà ngoài chợ, chị Hai Lệ được tin thằng Ân nhập viện trong tình trạng hôn mê, bất tỉnh. Chị lật đật, chạy về nhà rồi đi thẳng đến bệnh viện mà trong lòng nóng như lửa đốt. Vừa đến cửa phòng cấp cứu, bác sĩ đã trực sẵn, với lời dặn dò: “Chị về chuẩn bị hậu sự cho cháu là vừa. Nước đã tràn vào phổi quá nhiều. Hiện tại cháu đã hôn mê và chúng tôi đang nỗ lực cấp cứu cho cháu. Nhưng không hy vọng là mấy.” Vừa nghe đến đó chị choáng váng mất thăng bằng, rồi khụy xuống đất mà ôm mặt khóc.

***
Không biết từ bao giờ mà người ta gọi chị bằng cái biệt danh chị Hai Lệ. Thật ra chị tên thật là Nguyễn Thị Bé Hai, nhưng vì lúc nào người ta cũng chỉ thấy chị buồn và hay khóc, nên mấy bà bán hàng chung ở chợ đặt cho chị biệt danh Hai Lệ. Nghe vậy chị cũng chẳng màng. Bởi thật ra cuộc đời chị gắn liền với chữ lệ. Chị khóc nhiều hơn cười, buồn nhiều hơn vui. Mấy bà bạn hàng bán chung dường như chưa bao giờ thấy chị cười. Họ hay nói với nhau: “Con Hai Lệ cứ đưa cái mặt buồn như đưa đám ấy mà bán hàng ai mà mua.” Ấy vậy mà chị lại có duyên buôn bán. Lúc nào chị cũng bán đắt hơn người khác, nhiều khi mới hơn 7 giờ sáng chị đã bán sạch trơn. Mấy bà bạn hàng ghen tị nói bóng nói gió: “Ê có khi nào nó bỏ bùa vô hàng không mày? Chứ tao thấy gà nó bán có hơn gà của tao đâu. Mà biết sao được bà ơi, nhiều khi Chúa lấy cái này, Chúa cho cái khác. Mấy bà tặc lưỡi rồi lái qua chuyện khác...”
***
Thì Chúa cho cái này mà lấy cái khác, nhưng có lẽ cái Chúa lấy đi của chị quá nhiều đó là nước mắt. Từ thời còn con gái, chị phải tần tảo lo cho cha mẹ và các em. Đến tuổi lấy chồng, chị quen và yêu một người ngoại đạo. Gia đình ai cũng cản ngăn. Đã vậy, anh là con nhà Đạo Phật, lại là cháu đích tôn nên ba má anh không cho theo đạo. Gia đình chị lại ra điều kiện, nếu không theo đạo thì không cưới hỏi gì hết. Chị khóc hết nước mắt, cuối cùng anh cũng chịu làm phép chuẩn với điều kiện con cái sinh ra sẽ được rửa tội. Thế nhưng, về sống với anh đã hơn ba năm mà chị vẫn chưa có con. Mẹ chồng có ý muốn anh bỏ chị để có cháu nối dõi. Chị lại khóc. Mà cũng chẳng biết làm gì ngoài khóc. Nghe nói ông thánh Giu-se ở ngã tư Bảy Hiền linh lắm nên chị đến đó xin khấn. Thời may, chị có thai, rồi sinh được thằng con. Để tạ ơn Chúa, chị đặt cho nó tên Trần Hồng Ân. Thằng nhỏ sinh ra được ông bà nội nuông chiều hết sức.
***
Sinh con được vài tháng, chị và chồng phải gửi con cho ông bà nội mà lên Sài gòn tìm kế sinh nhai. Cuộc sống dưới quê, hai vợ chồng làm không đủ ăn, đủ mặc. Hơn nữa chồng chị mắc chứng bệnh viêm gan siêu vi B, sức khỏe kém, đi làm được vài ngày phải nghỉ vì sức khỏe không đảm bảo. Bữa chị khuyên chồng thôi vợ chồng mình làm liều, lên Sài Gòn lập nghiệp, đặng sau này có ít vốn nuôi con ăn học. Thế là hai vợ chồng ra đi để đứa nhỏ lại cho ông bà nội nuôi.
***
Thằng Ân ở với ông bà nội, đạo Phật, nên chẳng biết Chúa, Mẹ là ai, lâu lâu lại theo nội đi cúng chùa. Vài ba tháng ba mẹ cũng về thăm một lần, nhưng bấy nhiêu là chưa đủ với một đứa trẻ đang tuổi ăn tuổi lớn. Học hết lớp 5, nó nghe theo chúng bạn trốn học đi bụi đời. Bà nội đi tìm, mang về nhà, được vài ba bữa nó lại đi.
< Nhiều khi đang bán hàng, chị bị công an mời lên phường để bảo lãnh cho con, vì nó chưa đủ tuổi vị thành niên. Những lúc như thế chị chỉ biết khóc và cầu xin với Đức Mẹ ban ơn cho con của chị. Nhưng dường như Chúa với Đức Mẹ phớt lờ, hay bận bịu ban ơn ở đâu đó mà quên đi nỗi đau của chị.
***
Khổ với con chưa đặng hay sao mà Chúa lại tiếp tục mang cái khổ khác đến cho chị. Chồng chị, vì sức khỏe kém, lại không thể làm ăn gì được nên đâm ra bực bội vì thua kém vợ. Cái sĩ diện của một thằng đàn ông chuyên ăn bám vợ đã khiến tính nết anh thay đổi nhanh chóng. Đạo nghĩa anh bỏ bê không nói, đàng này anh nhậu nhẹt liên miên, về nhà thì lấy cớ “con hư tại mẹ”, tìm cách đánh đập chị. Chị Hai Lệ chỉ còn biết khóc cho thân phận mình. Nhiều khi đi bán, mắt thâm tím vì đêm qua bị chồng đánh, nhưng chị cứ phải nói dối mấy bà ngoài chợ: “Lỡ chợt chân té mà!”. Rồi ngoảnh mặt cố né tránh ánh mắt dòm ngó nghi ngờ của người khác.
***
Đêm đêm chị lại khóc. Khóc vì chồng. Khóc vì con. Khóc vì thân phận mình. Chỉ còn biết trông cậy vào Chúa và Đức Mẹ. Suốt ngày, hễ ngơi ra người ta sẽ thấy chị lần hạt, miệng cứ lẩm bẩm. Tuy vậy, càng cầu nguyện nhiều, càng đọc kinh nhiều, thì dường như Chúa càng chơi trò chơi trốn tìm với chị. Với chị, chưa bao giờ nhờ đọc kinh mà chị được an lòng, được như lòng mong ước dù chỉ là không rơi lệ chỉ một ngày. Phép lạ Chúa có thể làm ở đâu đó, cho ai đó chứ với chị thì không bao giờ. Nhưng chị không còn cách nào khác ngoài việc kiên trì cầu nguyện.
***
Rồi một buổi sáng, khi chị đang bán hàng thì thình lình thằng Ân xuất hiện trước mặt chị, với cái ba lô khoác trên vai.
- Má con đi đây! Gọn lơ, không chút cảm xúc.
- Mà con đi đâu? Chị như đứng hình chỉ còn kịp hỏi lại.
Nhưng câu hỏi của chị không được thằng Ân đáp ứng. Nó bỏ đi. Chị nghĩ thì nó cũng đã từng đi như vậy. Chỉ về nhà khi trên người đầy dẫy vết thương, tay chân bê bết máu. Được vài bữa, có khi vết thương chưa lành nó lại đi. Nhưng lần đi này chị có cảm giác khác lạ. Bởi những lần trước chưa bao giờ nó từ giã chị. Lần này nó lại chào chị, với ánh mắt đục mờ, không tương lại, không định hướng. Chị lại khóc, nước mắt ngắn dài. Chỉ còn lẩm bẩm như thói quen: “Mẹ Maria ơi, cứu lấy con của con, thằng Ân, đứa con mà con cầu xin mãi mới sinh ra nó, xin Mẹ hãy cứu lấy con của con…” Chị khóc nghẹn ngào đến nỗi kinh Kính Mừng cũng đọc không ra, cứ nghẹn ngào, rồi nức nở…Mấy bà ngoài chợ chặc lưỡi: “Lại khóc, tao mà có thằng con như thằng Ân thà tao đẻ trứng rồi ăn còn sướng hơn. Thủa nào thằng con khốn nạn, không biết thương mẹ là gì…”
***
Đang lim dim nằm trên võng nghỉ trưa, tay cầm tràng hạt, bỗng chị nghe tiếng thằng Ân thủ thỉ bên tai:
- Má! Con về rồi.
- Tổ cha mà! Mấy năm nay con đi đâu? Nói chưa dứt câu chị đã khóc.
- Dạ, con đi làm ăn, tính làm lại cuộc đời, bởi bấy lâu nay đã sống không đúng, làm cho ba má khổ. Nên con quyết định định thay đổi cuộc đời. Thời may con được các cha giúp đỡ. Các ngài lại tạo điều kiện cho con học nghề, rồi nhận con đi tu, trở thành tu sĩ. Nay con về, đặng làm giấy tờ, rồi xin chữ ký của ba má, chấp nhận cho con đi tu.
Nghe con nói mà chị không tin vào tai mình nữa. Đứa con chị tưởng đã mất, nhưng nay nó lại về. Nó về không những trở thành một con người khác, mà còn muốn theo Chúa sống đời dâng hiến. Chị ngơ khác, không hiểu thật hay mơ, hỏi lại:
- Con nói sao? Con đi tu? Con làm lại cuộc đời? Rồi chị khóc òa lên.
Tiếng khóc của chị những tưởng như người ta mất mát một cái gì đó lớn lắm trong cuộc đời. Nhưng đây không phải là mất mát, mà là tìm lại được, gặp lại được, nhận lại được đứa con hoang đàng…
***
Thế rồi cũng đến ngày con chị được vào Nhà Tập, được mặc áo dòng đen. Chính tay chị may áo cho nó, rồi cũng chính chị mang áo lên cho con, mà nghẹn ngào sung sướng không thể tả nổi. Chị tạ ơn Chúa, vậy là Chúa và Mẹ đã nhận lời rồi. Vậy là Chúa và Mẹ chịu làm phép lạ trên cuộc đời khốn khổ của con rồi. Hai mẹ con ôm nhau ngay trên gian cung thánh mà khóc nức nở. Thằng Ân mặc cái áo dòng vào, nó cảm nhận cái áo được đan dệt bằng nước mắt của mẹ nó. Người mà nó đã làm cho khổ cực bao nhiêu lâu nay.
***
Vừa bước xuống khỏi gian cung thánh, bỗng chị thấy một đám người lạ mặt chạy đến vây kín, chỉ thẳng vào mặt hai mẹ con chị mà chửi: “Ối giờ ơi! Thằng mất dạy đó mà tu tác gì. Đồ cái quân đâm thuê chém mướn, đồ quân trộm cướp, che mắt các cha được chứ làm sao mà che mắt thiên hạ được…Chiếc áo dòng không làm nên thầy tu. Mày tưởng mày mặc áo dòng vô thì đương nhiên là thầy tu hả. Trên người mày, mặt mũi mày đầy dẫy nào là thẹo chằng chịt, nào là vết xăm ngang dọc. Có chết cũng không rửa sạch tội lỗi của mày chứ đừng nói là đổi đời.” Rồi người ta bao vây lấy chị: “Đồ cái thứ đàn bà, phận làm vợ, làm mẹ mà không biết sống hòa thuận với chồng, không biết nuôi dạy con…giờ túng đường quá, mới gửi cho các cha, đặng được làm bà cố hả. Không có đâu, đừng có mơ…” - Không! Không! Không phải thế, con tôi đã ăn năn rồi, xin các người cho con tôi cơ hội làm lại cuộc đời. - Nhìn cái mặt là biết quân ăn cướp, đâm thuê chém mướn, nó mà tu tác nỗi gì. - Tôi xin các người, van các người hãy cho con tôi cơ hội làm lại cuộc đời… Chị càng van xin, đoàn người càng ngày càng đông, chỉ chỏ, chửi rủa mẹ con chị, đoàn người mỗi ngày một đông…chị chỉ còn biết la lên: “Không! Tôi xin các người cho con tôi cơ hội sửa đổi. Không! Không!...” - Nè chị! Chị ơi! Chị mơ gì thế - tiếng cô y tá đánh thức chị Hai Lệ. Chị mơ gì mà vừa khóc vừa la thảm thiết thế. Chắc chăm con mấy ngày không ngủ nên mệt rồi. Thôi để tôi dìu chị lên giường nằm nghỉ. - Dạ! Được rồi cô y tá, làm phiền cô quá, tôi chỉ nằm mơ thôi. Chị tỉnh giấc, bần thần người chưa hiểu giấc mơ có ý nghĩa gì. *** Những ngày thằng Ân nằm viện chồng chị vẫn sáng xỉn chiều say, chị phải nghỉ chợ ở luôn trong bệnh viện chăm cho thằng Ân. Nhiều khi chị ngồi bên giường con mà khóc ròng, tay thì cầm tràng hạt cầu nguyện cho con chị tai qua nạn khỏi. Bữa chị vừa nắm tay con, mắt nhắm rồi lẩm bẩm lần hạt, bỗng thấy tay thằng Ân động đậy. Chị mở mắt, ánh nhìn đầu tiên chị thấy con chị, thằng Ân, ánh mắt nó đã không còn mờ đục nữa, nó mấp máy môi: “Con đang ở đâu đây má?” Chị thấy con tỉnh lại thì vui mừng khôn tả, trả lời con: “Con bị chìm tàu khi đi chơi ở Biển Nha Trang, người ta cứu con được…con cứ nằm nghỉ đi…”. Rồi chị chạy vội đi gọi báo cho bác sĩ con chị đã tỉnh lại. Các bác sĩ cũng vô cùng ngạc nhiên về tình trạng của thằng Ân. Phần lớn cho rằng nó sẽ không qua khỏi, ấy vậy mà nó lại tỉnh lại. Bác sĩ cho rằng chỉ có phép lạ xảy ra thôi, chứ chúng tôi đã bó tay. Chị ôm thằng Ân vào lòng rồi vừa khóc vừa nói: “Con tạ ơn Chúa, tạ ơn Mẹ Ma-ri-a đã nhận lời con…” Thằng Ân nhìn thẳng vào mắt mẹ rồi nói: - Má, con thấy con đi tu, con được làm một thầy tu. Con được mặc áo dòng đen đẹp lắm má. Áo dòng tay dài, che hết người con, che tất cả những thương tích trên người con…Con thấy má cười, con thấy má vui lắm. Chị Hai Lệ cũng vô cùng ngạc nhiên với giấc mơ của con. Nó trùng khớp với giấc mơ của chị. Chị lại ôm nó vào lòng rồi nói: - Con tỉnh lại là má vui rồi. Chúa và Mẹ đã cứu con. Tạ ơn Chúa. Thằng Ân nhìn thẳng vào mắt mẹ mà nói: - Má! Trong cơn hoảng loạn, con bỗng nghe tiếng má nó: “làm dấu Thánh giá đi con!” Thế là con làm dấu rồi chìm nghỉm…Khi tỉnh lại biết là mình đã được cứu. Chúa đã cứu con phải không má? Con hứa với má, từ nay con sẽ làm lại từ đầu. Ráng chí thú làm ăn, không giang hồ lêu lổng nữa…con xin lỗi má. À mà má, có khi nào Chúa gọi con đi tu không má. Sao con mơ thấy được làm thầy tu… - Ừ, sao cũng được, miễn là con sống tốt là má vui rồi. - Dạ, con hứa với má cho dù con đi tu hay sống ở đời thì cũng sẽ trở thành người lương thiện, để má không phải khóc nữa… Hai mẹ con ôm nhau mà khóc, nước mắt ngắn dài. Bất chợt chồng chị xuất hiện. Anh không nói không rằng, tiến lại gần hai mẹ con, lấy tay ôm chầm lấy cả hai rồi thỏ thẻ: - Tất cả là lỗi tại anh đã không sống trọn trách nhiệm làm chồng làm cha của mình. Anh xin lỗi hai mẹ con… *** Cũng có câu chuyện nghe cứ như cổ tích giữa thời hiện đại này. Tin không? Nhưng tôi lại tin, bởi khi nhìn những vết xăm trên tay Ân, tôi thấy ở đó có cả một quá khứ đen tối, nhưng nhìn vào mắt em, tôi lại thấy cả một tương lai tươi sáng. Người xưa có câu: “Không có vị thánh nào mà không có quá khứ, cũng như không có tội nhân nào mà không có tương lai.” Ân còn cả một tương lại. Em đến với tôi với ý muốn trở thành một tu sĩ của Chúa. Thật sự tôi cũng chỉ có thể giúp em trong khả năng của mình. Phần còn lại phụ thuộc hoàn toàn vào em. Không biết, với kinh nghiệm đổ vỡ của mình, em có thể vượt qua những thử thách mà bất kì một ai muốn theo Giê-su buộc phải vượt qua hay không? Và liệu rằng người ta có thể chấp nhận cho một người có quá khứ đen tối đã được đóng dấu vào thân xác mình bằng những vết theo ngang dọc và những vết xăm chằng chịt. Liệu rằng…có tương lai nào cho một tội nhân không? Tuy vậy, những giọt nước mắt của người vợ, người mẹ, cả một đời vì chồng vì con, sẽ là cách thức cầu nguyện hữu hiệu nhất, và là bệ phóng cho bất kỳ một tương lai tương sáng nào. Cuối cùng, thế nào đi nữa, thì Chúa cũng sẽ nhận lời…Tôi xác tín như vậy. Bạn có tin thế không?
***
Không biết từ bao giờ mà người ta gọi chị bằng cái biệt danh chị Hai Lệ. Thật ra chị tên thật là Nguyễn Thị Bé Hai, nhưng vì lúc nào người ta cũng chỉ thấy chị buồn và hay khóc, nên mấy bà bán hàng chung ở chợ đặt cho chị biệt danh Hai Lệ. Nghe vậy chị cũng chẳng màng. Bởi thật ra cuộc đời chị gắn liền với chữ lệ. Chị khóc nhiều hơn cười, buồn nhiều hơn vui. Mấy bà bạn hàng bán chung dường như chưa bao giờ thấy chị cười. Họ hay nói với nhau: “Con Hai Lệ cứ đưa cái mặt buồn như đưa đám ấy mà bán hàng ai mà mua.” Ấy vậy mà chị lại có duyên buôn bán. Lúc nào chị cũng bán đắt hơn người khác, nhiều khi mới hơn 7 giờ sáng chị đã bán sạch trơn. Mấy bà bạn hàng ghen tị nói bóng nói gió: “Ê có khi nào nó bỏ bùa vô hàng không mày? Chứ tao thấy gà nó bán có hơn gà của tao đâu. Mà biết sao được bà ơi, nhiều khi Chúa lấy cái này, Chúa cho cái khác. Mấy bà tặc lưỡi rồi lái qua chuyện khác...”
***
Thì Chúa cho cái này mà lấy cái khác, nhưng có lẽ cái Chúa lấy đi của chị quá nhiều đó là nước mắt. Từ thời còn con gái, chị phải tần tảo lo cho cha mẹ và các em. Đến tuổi lấy chồng, chị quen và yêu một người ngoại đạo. Gia đình ai cũng cản ngăn. Đã vậy, anh là con nhà Đạo Phật, lại là cháu đích tôn nên ba má anh không cho theo đạo. Gia đình chị lại ra điều kiện, nếu không theo đạo thì không cưới hỏi gì hết. Chị khóc hết nước mắt, cuối cùng anh cũng chịu làm phép chuẩn với điều kiện con cái sinh ra sẽ được rửa tội. Thế nhưng, về sống với anh đã hơn ba năm mà chị vẫn chưa có con. Mẹ chồng có ý muốn anh bỏ chị để có cháu nối dõi. Chị lại khóc. Mà cũng chẳng biết làm gì ngoài khóc. Nghe nói ông thánh Giu-se ở ngã tư Bảy Hiền linh lắm nên chị đến đó xin khấn. Thời may, chị có thai, rồi sinh được thằng con. Để tạ ơn Chúa, chị đặt cho nó tên Trần Hồng Ân. Thằng nhỏ sinh ra được ông bà nội nuông chiều hết sức.
***
Sinh con được vài tháng, chị và chồng phải gửi con cho ông bà nội mà lên Sài gòn tìm kế sinh nhai. Cuộc sống dưới quê, hai vợ chồng làm không đủ ăn, đủ mặc. Hơn nữa chồng chị mắc chứng bệnh viêm gan siêu vi B, sức khỏe kém, đi làm được vài ngày phải nghỉ vì sức khỏe không đảm bảo. Bữa chị khuyên chồng thôi vợ chồng mình làm liều, lên Sài Gòn lập nghiệp, đặng sau này có ít vốn nuôi con ăn học. Thế là hai vợ chồng ra đi để đứa nhỏ lại cho ông bà nội nuôi.
***
Thằng Ân ở với ông bà nội, đạo Phật, nên chẳng biết Chúa, Mẹ là ai, lâu lâu lại theo nội đi cúng chùa. Vài ba tháng ba mẹ cũng về thăm một lần, nhưng bấy nhiêu là chưa đủ với một đứa trẻ đang tuổi ăn tuổi lớn. Học hết lớp 5, nó nghe theo chúng bạn trốn học đi bụi đời. Bà nội đi tìm, mang về nhà, được vài ba bữa nó lại đi.
< Nhiều khi đang bán hàng, chị bị công an mời lên phường để bảo lãnh cho con, vì nó chưa đủ tuổi vị thành niên. Những lúc như thế chị chỉ biết khóc và cầu xin với Đức Mẹ ban ơn cho con của chị. Nhưng dường như Chúa với Đức Mẹ phớt lờ, hay bận bịu ban ơn ở đâu đó mà quên đi nỗi đau của chị.
***
Khổ với con chưa đặng hay sao mà Chúa lại tiếp tục mang cái khổ khác đến cho chị. Chồng chị, vì sức khỏe kém, lại không thể làm ăn gì được nên đâm ra bực bội vì thua kém vợ. Cái sĩ diện của một thằng đàn ông chuyên ăn bám vợ đã khiến tính nết anh thay đổi nhanh chóng. Đạo nghĩa anh bỏ bê không nói, đàng này anh nhậu nhẹt liên miên, về nhà thì lấy cớ “con hư tại mẹ”, tìm cách đánh đập chị. Chị Hai Lệ chỉ còn biết khóc cho thân phận mình. Nhiều khi đi bán, mắt thâm tím vì đêm qua bị chồng đánh, nhưng chị cứ phải nói dối mấy bà ngoài chợ: “Lỡ chợt chân té mà!”. Rồi ngoảnh mặt cố né tránh ánh mắt dòm ngó nghi ngờ của người khác.
***
Đêm đêm chị lại khóc. Khóc vì chồng. Khóc vì con. Khóc vì thân phận mình. Chỉ còn biết trông cậy vào Chúa và Đức Mẹ. Suốt ngày, hễ ngơi ra người ta sẽ thấy chị lần hạt, miệng cứ lẩm bẩm. Tuy vậy, càng cầu nguyện nhiều, càng đọc kinh nhiều, thì dường như Chúa càng chơi trò chơi trốn tìm với chị. Với chị, chưa bao giờ nhờ đọc kinh mà chị được an lòng, được như lòng mong ước dù chỉ là không rơi lệ chỉ một ngày. Phép lạ Chúa có thể làm ở đâu đó, cho ai đó chứ với chị thì không bao giờ. Nhưng chị không còn cách nào khác ngoài việc kiên trì cầu nguyện.
***
Rồi một buổi sáng, khi chị đang bán hàng thì thình lình thằng Ân xuất hiện trước mặt chị, với cái ba lô khoác trên vai.
- Má con đi đây! Gọn lơ, không chút cảm xúc.
- Mà con đi đâu? Chị như đứng hình chỉ còn kịp hỏi lại.
Nhưng câu hỏi của chị không được thằng Ân đáp ứng. Nó bỏ đi. Chị nghĩ thì nó cũng đã từng đi như vậy. Chỉ về nhà khi trên người đầy dẫy vết thương, tay chân bê bết máu. Được vài bữa, có khi vết thương chưa lành nó lại đi. Nhưng lần đi này chị có cảm giác khác lạ. Bởi những lần trước chưa bao giờ nó từ giã chị. Lần này nó lại chào chị, với ánh mắt đục mờ, không tương lại, không định hướng. Chị lại khóc, nước mắt ngắn dài. Chỉ còn lẩm bẩm như thói quen: “Mẹ Maria ơi, cứu lấy con của con, thằng Ân, đứa con mà con cầu xin mãi mới sinh ra nó, xin Mẹ hãy cứu lấy con của con…” Chị khóc nghẹn ngào đến nỗi kinh Kính Mừng cũng đọc không ra, cứ nghẹn ngào, rồi nức nở…Mấy bà ngoài chợ chặc lưỡi: “Lại khóc, tao mà có thằng con như thằng Ân thà tao đẻ trứng rồi ăn còn sướng hơn. Thủa nào thằng con khốn nạn, không biết thương mẹ là gì…”
***
Đang lim dim nằm trên võng nghỉ trưa, tay cầm tràng hạt, bỗng chị nghe tiếng thằng Ân thủ thỉ bên tai:
- Má! Con về rồi.
- Tổ cha mà! Mấy năm nay con đi đâu? Nói chưa dứt câu chị đã khóc.
- Dạ, con đi làm ăn, tính làm lại cuộc đời, bởi bấy lâu nay đã sống không đúng, làm cho ba má khổ. Nên con quyết định định thay đổi cuộc đời. Thời may con được các cha giúp đỡ. Các ngài lại tạo điều kiện cho con học nghề, rồi nhận con đi tu, trở thành tu sĩ. Nay con về, đặng làm giấy tờ, rồi xin chữ ký của ba má, chấp nhận cho con đi tu.
Nghe con nói mà chị không tin vào tai mình nữa. Đứa con chị tưởng đã mất, nhưng nay nó lại về. Nó về không những trở thành một con người khác, mà còn muốn theo Chúa sống đời dâng hiến. Chị ngơ khác, không hiểu thật hay mơ, hỏi lại:
- Con nói sao? Con đi tu? Con làm lại cuộc đời? Rồi chị khóc òa lên.
Tiếng khóc của chị những tưởng như người ta mất mát một cái gì đó lớn lắm trong cuộc đời. Nhưng đây không phải là mất mát, mà là tìm lại được, gặp lại được, nhận lại được đứa con hoang đàng…
***
Thế rồi cũng đến ngày con chị được vào Nhà Tập, được mặc áo dòng đen. Chính tay chị may áo cho nó, rồi cũng chính chị mang áo lên cho con, mà nghẹn ngào sung sướng không thể tả nổi. Chị tạ ơn Chúa, vậy là Chúa và Mẹ đã nhận lời rồi. Vậy là Chúa và Mẹ chịu làm phép lạ trên cuộc đời khốn khổ của con rồi. Hai mẹ con ôm nhau ngay trên gian cung thánh mà khóc nức nở. Thằng Ân mặc cái áo dòng vào, nó cảm nhận cái áo được đan dệt bằng nước mắt của mẹ nó. Người mà nó đã làm cho khổ cực bao nhiêu lâu nay.
***
Vừa bước xuống khỏi gian cung thánh, bỗng chị thấy một đám người lạ mặt chạy đến vây kín, chỉ thẳng vào mặt hai mẹ con chị mà chửi: “Ối giờ ơi! Thằng mất dạy đó mà tu tác gì. Đồ cái quân đâm thuê chém mướn, đồ quân trộm cướp, che mắt các cha được chứ làm sao mà che mắt thiên hạ được…Chiếc áo dòng không làm nên thầy tu. Mày tưởng mày mặc áo dòng vô thì đương nhiên là thầy tu hả. Trên người mày, mặt mũi mày đầy dẫy nào là thẹo chằng chịt, nào là vết xăm ngang dọc. Có chết cũng không rửa sạch tội lỗi của mày chứ đừng nói là đổi đời.” Rồi người ta bao vây lấy chị: “Đồ cái thứ đàn bà, phận làm vợ, làm mẹ mà không biết sống hòa thuận với chồng, không biết nuôi dạy con…giờ túng đường quá, mới gửi cho các cha, đặng được làm bà cố hả. Không có đâu, đừng có mơ…” - Không! Không! Không phải thế, con tôi đã ăn năn rồi, xin các người cho con tôi cơ hội làm lại cuộc đời. - Nhìn cái mặt là biết quân ăn cướp, đâm thuê chém mướn, nó mà tu tác nỗi gì. - Tôi xin các người, van các người hãy cho con tôi cơ hội làm lại cuộc đời… Chị càng van xin, đoàn người càng ngày càng đông, chỉ chỏ, chửi rủa mẹ con chị, đoàn người mỗi ngày một đông…chị chỉ còn biết la lên: “Không! Tôi xin các người cho con tôi cơ hội sửa đổi. Không! Không!...” - Nè chị! Chị ơi! Chị mơ gì thế - tiếng cô y tá đánh thức chị Hai Lệ. Chị mơ gì mà vừa khóc vừa la thảm thiết thế. Chắc chăm con mấy ngày không ngủ nên mệt rồi. Thôi để tôi dìu chị lên giường nằm nghỉ. - Dạ! Được rồi cô y tá, làm phiền cô quá, tôi chỉ nằm mơ thôi. Chị tỉnh giấc, bần thần người chưa hiểu giấc mơ có ý nghĩa gì. *** Những ngày thằng Ân nằm viện chồng chị vẫn sáng xỉn chiều say, chị phải nghỉ chợ ở luôn trong bệnh viện chăm cho thằng Ân. Nhiều khi chị ngồi bên giường con mà khóc ròng, tay thì cầm tràng hạt cầu nguyện cho con chị tai qua nạn khỏi. Bữa chị vừa nắm tay con, mắt nhắm rồi lẩm bẩm lần hạt, bỗng thấy tay thằng Ân động đậy. Chị mở mắt, ánh nhìn đầu tiên chị thấy con chị, thằng Ân, ánh mắt nó đã không còn mờ đục nữa, nó mấp máy môi: “Con đang ở đâu đây má?” Chị thấy con tỉnh lại thì vui mừng khôn tả, trả lời con: “Con bị chìm tàu khi đi chơi ở Biển Nha Trang, người ta cứu con được…con cứ nằm nghỉ đi…”. Rồi chị chạy vội đi gọi báo cho bác sĩ con chị đã tỉnh lại. Các bác sĩ cũng vô cùng ngạc nhiên về tình trạng của thằng Ân. Phần lớn cho rằng nó sẽ không qua khỏi, ấy vậy mà nó lại tỉnh lại. Bác sĩ cho rằng chỉ có phép lạ xảy ra thôi, chứ chúng tôi đã bó tay. Chị ôm thằng Ân vào lòng rồi vừa khóc vừa nói: “Con tạ ơn Chúa, tạ ơn Mẹ Ma-ri-a đã nhận lời con…” Thằng Ân nhìn thẳng vào mắt mẹ rồi nói: - Má, con thấy con đi tu, con được làm một thầy tu. Con được mặc áo dòng đen đẹp lắm má. Áo dòng tay dài, che hết người con, che tất cả những thương tích trên người con…Con thấy má cười, con thấy má vui lắm. Chị Hai Lệ cũng vô cùng ngạc nhiên với giấc mơ của con. Nó trùng khớp với giấc mơ của chị. Chị lại ôm nó vào lòng rồi nói: - Con tỉnh lại là má vui rồi. Chúa và Mẹ đã cứu con. Tạ ơn Chúa. Thằng Ân nhìn thẳng vào mắt mẹ mà nói: - Má! Trong cơn hoảng loạn, con bỗng nghe tiếng má nó: “làm dấu Thánh giá đi con!” Thế là con làm dấu rồi chìm nghỉm…Khi tỉnh lại biết là mình đã được cứu. Chúa đã cứu con phải không má? Con hứa với má, từ nay con sẽ làm lại từ đầu. Ráng chí thú làm ăn, không giang hồ lêu lổng nữa…con xin lỗi má. À mà má, có khi nào Chúa gọi con đi tu không má. Sao con mơ thấy được làm thầy tu… - Ừ, sao cũng được, miễn là con sống tốt là má vui rồi. - Dạ, con hứa với má cho dù con đi tu hay sống ở đời thì cũng sẽ trở thành người lương thiện, để má không phải khóc nữa… Hai mẹ con ôm nhau mà khóc, nước mắt ngắn dài. Bất chợt chồng chị xuất hiện. Anh không nói không rằng, tiến lại gần hai mẹ con, lấy tay ôm chầm lấy cả hai rồi thỏ thẻ: - Tất cả là lỗi tại anh đã không sống trọn trách nhiệm làm chồng làm cha của mình. Anh xin lỗi hai mẹ con… *** Cũng có câu chuyện nghe cứ như cổ tích giữa thời hiện đại này. Tin không? Nhưng tôi lại tin, bởi khi nhìn những vết xăm trên tay Ân, tôi thấy ở đó có cả một quá khứ đen tối, nhưng nhìn vào mắt em, tôi lại thấy cả một tương lai tươi sáng. Người xưa có câu: “Không có vị thánh nào mà không có quá khứ, cũng như không có tội nhân nào mà không có tương lai.” Ân còn cả một tương lại. Em đến với tôi với ý muốn trở thành một tu sĩ của Chúa. Thật sự tôi cũng chỉ có thể giúp em trong khả năng của mình. Phần còn lại phụ thuộc hoàn toàn vào em. Không biết, với kinh nghiệm đổ vỡ của mình, em có thể vượt qua những thử thách mà bất kì một ai muốn theo Giê-su buộc phải vượt qua hay không? Và liệu rằng người ta có thể chấp nhận cho một người có quá khứ đen tối đã được đóng dấu vào thân xác mình bằng những vết theo ngang dọc và những vết xăm chằng chịt. Liệu rằng…có tương lai nào cho một tội nhân không? Tuy vậy, những giọt nước mắt của người vợ, người mẹ, cả một đời vì chồng vì con, sẽ là cách thức cầu nguyện hữu hiệu nhất, và là bệ phóng cho bất kỳ một tương lai tương sáng nào. Cuối cùng, thế nào đi nữa, thì Chúa cũng sẽ nhận lời…Tôi xác tín như vậy. Bạn có tin thế không?
Lm. Mar –Aug Bùi Văn Hồng Phúc, SSS
Thursday, November 8, 2018
Phép Lạ - Mẹ La Vang đã cứu ba tôi!!!
LTS: Bà Lê Tín Hương hiện ở California, là một nhạc sĩ, cũng là một nhà văn, qua cha cố Trọng đang nghỉ hưu tại Orange County, California, gởi cho chúng tôi câu chuyện về Ơn Lạ của Mẹ Lavang ban cho gia đình bà cách đây 40 năm. Xin mời bạn đọc theo dõi. “Về bên Mẹ Lavang” chân thành cám ơn tác giả.
Tôi rời nhà lúc sáu giờ sáng Chủ Nhật. Lái xe trong cơn mưa tầm tã, trên con đường dài vẫn còn mù mờ tối của một buổi sáng mùa đông lạnh, đối với tôi là một việc làm gần như rất hiếm hoi.
Ngày cuối tuần, nhất là những sáng trời mưa, tôi vẫn có cái thú rúc trong chăn và nằm nướng. Cây đàn Tây Ban Cầm được gác sẵn bên góc đường để tôi có thể với tay kéo lên bất cứ lúc nào, và ngồi dậy tựa lưng vào thành giường nhã hứng… Những dòng nhạc về mưa, về thân phận lúc đó lại có cơ hội tiếng thăng tiếng trầm đến với cuộc đời…
Riêng sáng hôm nay, lòng tôi nao nao mong đợi. Tôi thức dậy sớm. Sau một chút trang điểm nhẹ nhàng, tôi chọn cho tôi chiếc áo màu trắng, khoác ngoài chiếc áo ấm màu đen và sẵn sàng chờ giờ ra xe. Trời chưa thấy sáng và giờ đi hãy còn sớm. Tôi bâng khuâng ngồi nhìn ra khung cửa, mưa vẫn còn nặng hạt, dấu chỉ báo hiệu cho một cơn mưa có thể kéo dài đến chiều…
Liên tưởng đến buổi Thánh Lễ Ðại Trào mà tôi sẽ tham dự sáng nay, khai mạc năm Toàn Xá 200 năm Ðức Mẹ Lavang và kỷ niệm 10 năm phong thánh, 117 vị anh hùng Tử Ðạo Việt Nam. Tôi bỗng thấy lòng lâng lâng xúc động. Ngoài sự cảm phục về tấm gương sáng ngời tình yêu và tuyên xưng đức tin của các Thánh Tử Ðạo, thì mỗi khi nhắc đến Mẹ Lavang, là gợi lại trong tôi hồi tưởng về một khung trời thơ ấu xa xưa với biến cố trọng đại đã đến với gia đình tôi cách đây 40 năm về trước, vào một ngày mưa gió như hôm nay…
Năm 1958, ba tôi làm việc tại bệnh viện Trung Ương thánh phố Huế. Mỗi tháng ông vẫn cùng các bác sĩ đi thanh tra các bệnh viện nhỏ ở các vùng lân cận. Hôm ấy, ông sửa soạn đi thăm bệnh viện Quảng Trị, cách thành phố Huế khoảng 65 cây số về phía Tây Bắc.
Tôi còn nhớ rõ sáng hôm ấy trời mưa lạnh. Những cơn mưa mà những ai đã từng ở Huế chắc chắn không thể nào quên được. Mưa tầm tã, rả rích kéo dài từ ngày này sang ngày khác tưởng chừng như vô tận. Ba tôi chuẩn bị lên đường. Chiếc xe chở ông cùng ba vị bác sĩ và một nhân viên bệnh viện đã đón ông ở ngoài cổng. Ba tôi mặc vào người chiếc áo jacket bằng da và dặn dò mẹ tôi một vài điều gì đó rồi vội vàng ra xe.
Bước xuống mấy bậc thềm ông gặp ngay cha Luận đang bước vào. Cha Cao Văn Luận cùng quê quán với cha tôi, Ngài rất gần gũi và thương yêu gia đình tôi. Một trong những mong mỏi của Ngài là được thấy gia đình tôi theo Ðạo.
Tuy rất kính và quý mến cha nhưng điều đó với ba mẹ tôi là một trở ngại lớn, không thể nào thực hiện được. Cả hai bên nội ngoại tôi không ai có Ðạo. Mẹ tôi đồng thời lại là một Phật Tử. Bà đã quy y, pháp danh Nguyên Khai. Bà cũng đã từng xây chùa cho làng ngoại tôi tại Huế. Mẹ tôi là một người đàn bà có học. Như đa số những bà mẹ Việt Nam khác rất hiền lành và nhẫn nhục. Cả cuộc đời hy sinh cho hạnh phúc của chồng con, nhưng trong vấn đề tín ngưỡng thì lại rất cương quyết, chẳng thể nào lay chuyển được. Ba tôi biết thế nên ông rất tôn trọng mẹ tôi mặc dầu ông rất kính mến cha Luận.
Cha Luận gặp ba tôi, Ngài bắt tay rất vui vẻ, Ngài đưa cho ba tôi một tấm ảnh và bảo: “Tôi mới đi kiệu ngoài Lavang về. Tôi kính cho ông một tượng ảnh của Mẹ Lavang. Ðức Mẹ đã làm nhiều phép lạ và rất linh thiêng. Ông hãy giữ lấy mà cầu nguyện.”
Ba tôi cười cười, nói cám ơn cha, rồi thuận tay ông nhét tấm ảnh vào túi trong của chiếc áo da. “Con phải đi ngay cha à, mọi người đang đợi con ở ngoài kia.” Vừa nói ba tôi vừa chào từ giã cha rồi ra xe.
Tôi nhìn theo chiếc xe chở ba tôi khuất dần, khuất dần sau màn mưa dày đặc…
Buổi chiều trong khi người nhà chuẩn bị bữa cơm, chúng tôi ngồi nghe mẹ kể chuyện. Mẹ đang kể một đoạn trong câu chuyện “những kẻ khốn cùng” (les misérables) của văn hào Victor Hugo thì chúng tôi nhận được hung tin. Chiếc xe chở ba tôi và bốn người nữa đã bị lật tại cầu Giồng Quảng Trị và chìm xuống sông. Tất cả đều tử nạn. Bệnh viện báo tin và yêu cầu gia đình ra ngay hiện trường để nhận xác đồng thời để tẩm liệm tại chỗ cho thân nhân…
trước biến cố bất ngờ đó, mẹ tôi như người bị sét đánh. Bà run rẩy rững sờ ôm lấy tôi. Làm sao tôi có thể diễn tả hết nỗi đau đớn trong lòng mẹ lúc ấy… (giờ đây sau biết bao lần chứng kiến những chia ly, tử biệt, tôi mới ngậm ngùi thấm thía được niềm đau đớn của những nỗi đợi chờ tuyệt vọng), chỉ biết là đã nhìn thấy mẹ đầm đìa nước mắt và cả chúng tôi nữa…
Ngoài kia dòng lệ của đất trời vẫn hững hờ rơi…
Mẹ tôi và chị em tôi theo chiếc xe của bệnh viện ra Quảng Trị nhận xác cha. Ðến nơi, tại một trạm gác nhỏ nằm cuối chân cầu, xác của ba vị bác sĩ và nhân viên bệnh viện đã được vớt lên. Còn thi hài của ba tôi thì chưa tìm thấy. Người ta chưa vớt được ba tôi nhưng mọi người xác định là ông cũng cùng một số phận với những người đã tử nạn; nhất là ông đã chìm sâu dưới lòng nước quá lâu. Mẹ tôi mặt mày bạc nhược tái xanh, mắt đỏ hoe vì khóc, đứng ở một góc phòng chờ đợi…
Thân nhân của các nạn nhân đều đã tới, tiếng kêu gào khóc kể nghe rất não lòng. Tôi vừa buồn vừa sợ, mơ hồ cảm thấy một khúc quành nào đó thật ngặt nghèo đang chờ đợi gia đình tôi.
Em tôi vì còn nhỏ, có lẽ chưa hiểu lắm, nép trong lòng mẹ ngơ ngác nhìn quanh: “Ba đâu, ba đâu mẹ!” Mẹ tôi chưa kịp dỗ dành em thì bỗng có tiếng người la lớn:
- “Ðây rồi, vớt được xác sau cùng rồi!”
Là ba đó, mẹ tôi chạy nhào tới.
Phải rồi, người ta đang khiêng ba tôi vào, đặt ba tôi nằm trên chiếc băng ca.
Lại có tiếng người la lên: “Trời ơi! Ông ta hình như chưa chết. Còn thở. Hơi thở yếu lắm. Làm hô hấp nhân tạo ngay đi!”
Và ba tôi quả còn sống thật! Mẹ tôi quỳ xuống lạy trời lạy đất. Cám ơn Trời Phật đã cứu sống ba tôi. Nước mắt một lần nữa tuôn dầm dề trên má mẹ, nhưng lần này là những giòng nước mắt hạnh phúc không ngờ…
Chúng tôi quỳ chung quanh chiếc băng ca nơi ba tôi đang nằm.
Ba tôi tỉnh lại hẳn. Ông nói bằng một giọng nói thật yếu ớt, câu nói đầu tiên mà tôi không bao giờ quên được: “Hãy xin cha rửa tội, rửa tội cho cả nhà, Ðức Mẹ Lavang đã cứu ba.”
Nói xong ông đưa tay vào trong túi áo da lục lọi kiếm tìm, và sau đó ông rút ra tấm ảnh Ðức Mẹ Lavang. Tấm tượng ảnh mà cha Luận đã cho ông trước chuyến đi định mệnh. Tấm ảnh đã ướt sũng và đậm màu vì thấm nước, nhưng hình Ðức Mẹ với chiếc áo choàng xanh vẫn còn in rõ nét.
Ba tôi nói tiếp: “Ðây chính Bà này đã cứu ba, Bà đã lôi ba, lúc ấy đang mắc kẹt trong xe, ra khỏi cửa xe. Bà đẩy ba nổi lên mặt nước và nói Ta là Ðức Mẹ Lavang, Ta đến cứu con.”
Tôi chợt nghĩ lại, nếu ngày hôm đó ba tôi không vội vàng ra đi, và có thời giờ để tiếp chuyện với cha Luận. Có lẽ bức tượng ảnh Ðức Mẹ Lavang đã bị quên trong một ngăn kéo nào đó cùng với sự hững hờ của ba mẹ tôi.
Sau biến cố đó, gia đình tôi gồm ba mẹ và 7 anh chị em đã rửa tội trong sự tự nguyện rất hoan hỷ của mẹ tôi. Ba vị linh mục thân thiết của gia đình tôi, cha Cao Văn Luận, cha Ngô Văn Trọng lúc bấy giờ là cha Chánh Xứ họ đạo Phanxicô, hay còn gọi là Nhà Thờ nhà nước, nơi mà gia đình tôi cư ngụ, và cha Vũ Minh Nghiễm, Dòng Chúa Cứu Thế, người đã dày công dạy giáo lý cho chúng tôi. Cả ba vị linh mục này đã dâng thánh lễ và ban phép rửa tội cho chúng tôi.
Theo lời xin của ba tôi, để cảm tạ ơn thánh của Ðức Mẹ, lễ rửa tội được tổ chức tại Thánh Ðường Ðức Mẹ Lavang Quảng Trị. Mẹ tôi vô cùng vui mừng hân hoan, và tin tưởng lần chuỗi mân côi cảm tạ ơn Ðức Mẹ mỗi ngày. Cho đến ngày nhắm mắt bà là một tín đồ sốt sắng, sùng kính Ðức Mẹ tuyệt đối. Ðây là những hình ảnh cuối đời của mẹ tôi.
Tôi còn nhớ rõ sau thời gian gia đình chịu phép rửa tội. Mẹ tôi đã chịu đựng nhiều lời ra tiếng vào của họ hàng và những người quen biết. Họ cho rằng gia đình tôi theo đạo là để mưu cầu cho một quyền lợi nào đó. Về phần chúng tôi khi đến trường cũng nghe những lời đàm tiếu của bạn bè. Mỗi lần than vãn với mẹ thì mẹ lại khuyên răn chúng tôi: “Ba là cột trụ và là nguồn sống của gia đình chúng ta. Vì thế dầu có chịu bao nhiêu thử thách, khó khăn cũng phải chấp nhận để cảm tạ ân sủng đó. Tình yêu luôn luôn có cái giá phải trả, và cái giá đó có nghĩa gì đâu với ân huệ mà Ðức Mẹ đã ban cho gia đình chúng ta.”
Mẹ tôi nói đúng, ơn lạ mà Mẹ Lavang đã ban là một biến cố lớn trong đời sống tâm linh của gia đình, cũng là một biến cố trong lịch sử gia tộc. Ba tôi năm nay đã gần 90. Ông vẫn còn kính tấm tượng ảnh năm xưa đã cứu ông trên bàn thờ. Tấm ảnh Ðức Mẹ ngày nay đã mờ nhạt theo thời gian, nhưng mỗi ngày ông đều đọc kinh lần hạt cảm tạ Ðức Mẹ.
Câu chuyện mầu nhiệm này đã được chúng tôi thường xuyên kể lại cho con cháu nghe, như là một câu chuyện thần thoại nhưng có thật. Xẩy đến từ một trong những phép lạ của Ðức Mẹ Lavang đối với gia đình tôi nói riêng và nhiều gia đình khác nói chung.
Ngày đại lễ hôm nay trời cũng mưa. Tôi lái xe trong cơn mưa như trút nước, Lòng hạnh phúc vô cùng vì tôi được có Chúa. Có ánh sáng niềm Tin của Ngài chiếu rọi tâm hồn tôi. Có Tình Yêu bao la rộng mở của Ðức Mẹ đã đến với gia đình tôi từ thuở tôi mới lên mười…
Tôi lắng nghe những lời huấn từ của Ðức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Thuận. Bằng giọng nói rõ ràng trầm ấm, Ngài nhắc lại lịch sử Giáo Hội Công Giáo Việt Nam từ những ngày đầu tiên. Qua biết bao nhiêu thăng trầm gian khổ có máu, có nước mắt và ngày nay đã được thăng hoa với 117 Vị Thánh Tử Ðạo. Gia đình ngài cũng đã theo Chúa cách đây 300 năm, với những thử thách cùng với nhiều ân sủng của Chúa, của Ðức Mẹ, đặc biệt là Mẹ Lavang. Ngài cũng kể lại những phép lạ mà Ðức Mẹ đã ban, trong đó có phép lạ chữa lành bệnh cho cha cố Trọng, cha Linh Hướng của gia đình tôi.
Tôi tự cảm thấy gia đình mình may mắn, đã được hưởng một ân sủng quá đặc biệt đến từ Tình Yêu bao la không bờ bến của Ðức Mẹ.
Trong cái lạnh của mùa Ðông, lòng tôi bỗng nhiên ấm cúng. Tôi thấy tâm hồn như nở hoa. Ðóa hoa Yêu Thương trong vườn hoa rực rỡ của niềm Tin. Tôi hy vọng sẽ mãi mãi là đóa hoa đầy hương sắc, không bao giờ héo rũ úa tàn. Tôi thầm cám ơn Chúa, cám ơn Mẹ, cúi đầu để che dấu dòng lệ cảm xúc đang âm thầm rơi. Dòng lệ của hơn bốn mươi năm trước kể từ khi gia đình tôi được ơn lạ của Ðức Mẹ Lavang, trải qua biết bao sóng gió bể dâu… Có lúc đã ngưng đọng, có lúc tưởng chừng bị lãng quên, hôm nay lại từng giọt chảy dài… Những giọt lệ vui mừng. Những giọt lệ bồi hồi nhắc nhở tôi niềm hạnh phúc được nương náu trong Tình Yêu và Ân Sủng của Chúa, của Mẹ Maria.
California, Chúa Nhật ngày 22 tháng 2 năm 1998
Lê Tín Hương
Lê Tín Hương