110 September 2017 - ♫♫- Ngài Gọi Con -♫♫

†.Ngài Gọi Con.†

Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế.(Mt 12:7)
Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo Ta.(Mt 16:24 )
Nếu anh em không trở lại mà nên như trẻ em, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời.(Mt 18:3 )
Kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít.(Mt 22:14)
Trời đất sẽ qua đi, nhưng những lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu.(Mt 24.35)
Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ anh em.(Mt 23.11)
"Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con."(Mc 1:11)
Thiên Chúa Là Tình Yêu

"Thiên Chúa là tình yêu, và hễ ai ở trong tình yêu thì ở trong Chúa, và Chúa ở trong người ấy"(1 Ga 4:16)

Chúa Cất Tiếng Gọi Con

Con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn.(Mt 11:25)

Con Nay Thuộc Về Chúa

Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì được sống muôn đời."(Ga 3:16)

♫♫.Ngài Gọi Con Blog.♫♫

Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh!(Mc 10:52) .
  • †.Ngài Gọi Con Blog.†

    Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai? Ông Phê-rô trả lời: "Thầy là Đấng Ki-tô."( Mc 8:29)

  • †.Ngài Gọi Con Blog.†

    Anh em đong đấu nào, thì Thiên Chúa cũng sẽ đong đấu ấy cho anh em, và còn cho anh em hơn nữa.(Mc 4:24)

  • †.Ngài Gọi Con Blog.†

    Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi.(Mc 3:35)

  • †.Ngài Gọi Con Blog.†

    Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá.(Mc 1:17)

    9558453

    LƯỢT XEM

    125

    BÀI VIẾT

    7989342

    LƯỢT THÍCH

    6932432

    CHIA SẺ

    †.Ngài Gọi Con Blog.†

    Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ! (Mc 6:50)

    Saturday, September 30, 2017

    TÓM TẮT THÁNH KINH
    I. CỰU ƯỚC: 46 cuốn

    a. Sách lịch sử: 21 cuốn, 5 cuốn đầu gọi là Ngũ kinh

    Sáng thế (50), Xuất hành (40), Lê-vi (27), Dân số (36), Đệ nhị luật (34), Giô-suê (24), Thủ lãnh (21), Rút (4), 1 Sa-mu-en (31), 2 Sa-mu-en (24), 1 Vua (22), 2 Vua (25), 1 Sử biên niên (29), 2 Sử biên niên (36), Ét-ra (10), Nơ-khe-mi-a (13), Tô-bi-a (14), Giu-đi-tha (16), Ét-te (10), 1 Ma-ca-bê (16), 2 Ma-ca-bê (15).

    b. Sách giáo huấn: 7 cuốn

    Gióp (42), Thánh vịnh (150), Châm ngôn (31), Giảng viên (12), Diễm ca (8), Khôn ngoan (19), Huấn ca (51).

    c. Sách tiên tri: 18 cuốn: 6 cuốn đầu ngôn sứ lớn và 12 cuốn sau ngôn sứ nhỏ

    I-sai-a (66), Giê-rê-mi-a (52), Ai ca (5), Ba-rúc (6), Ê-dê-ki-en (48), Đa-ni-en (14), Hô-sê (14), Giô-en (4), A-mốt (9), Ô-va-đi-a (14 câu), Giô-na (4), Mi-kha (7), Na-khum (3), Kha-ba-cúc (3), Xô-phô-ni-a (3), Khác-gai (2), Da-ca-ri-a (14), Ma-la-khi (3).


    II. TÂN ƯỚC: 27 cuốn, chia làm 3 loại

    a. Lịch sử: 5 cuốn: 4 Tin mừng và sách Cộng vụ tông đồ

    Mát-thêu (28), Má-cô (16), Lu-ca (24), Gio-an (21) và Công vụ tông đồ (28).

    b. Sách Giáo huấn: 21 cuốn: 14 thư đầu của Thánh Phaolô và 7 Thư chung

    Rô-ma (16), 1 Cô-rin-tô (16), 2 Cô-rin-tô ( 13), Ga-lát (6), Ê-phê-sô (6), Phi-líp-phê (4), Cô-lô-xê (4), 1 Thê-xa-lô-ni-ca (5), 2 Thê-xa-lô-ni-ca (3), 1 Ti-mô-thê (6), 2 Ti-mô-thê (4), Ti-tô (3), Phi-lê-môn (25 câu), Do-thái (13), Gia-cô-bê (5), 1 Phêrô (5), 2 Phêrô (3), 1 Gio-an (5), 2 Gio-an (13 câu), 3 Gio-an (15 câu), Giu-đa (25 câu)

    c. Sách tiên tri: 1 cuốn

    Khải huyền của Thánh Gioan(22).

    III. NỘI DUNG CÁC SÁCH

    1. Sách Sáng thế (St): Trình bày lịch sử sơ khai của vũ trụ và nguồn gốc loài người. làm khởi điểm cho hành trình lịch sử cứu độ, mà Thiên Chúa đã từng bước thực hiện nơi dân tộc Do Thái là dân riêng của Người.

    2. Sách Xuất hành (Xh): Sách xuất hành kể lại việc Thiên Chúa giải phóng dân Israel thoát khỏi cảnh nô lệ Ai Cập; cuộc hành trình trong sa mạc và việc Thiên Chúa kết giao ước với dân riêng của Người trên núi Sinai.

    3. Sách Lêvi (Lv): Trình thuật những nghi thức tế tự, và phong chức các tư tế; những luật lệ liên quan đến việc thanh sạch và uế tạp; nghi thức về ngày đại xá tội và lời chúc lành, chúc dữ; định rõ những điều kiện để chuộc người, vật và các thứ khác hiến dâng cho Thiên Chúa.

    4. Sách Dân số (Ds): Ghi lại những biến cố của cuộc hành trình trong sa mạc, cuộc khởi hành trên núi Sinai được sửa soạn bởi việc kiểm tra dân số; việc đánh chiếm các dân trên đường tiến về đất hứa và việc định cư tại đất Canaan.

    5. Sách Đệ Nhị Luật (Đnl): Đây là bản dân luật và luật tôn giáo do Môsê soạn tác. Trong sách này ghi lại một phần các lề luật được ban trên núi Sinai; đồng thời nhắc lại những biến cố chính trong sa mạc và mặc cho nó một ý nghĩa tôn giáo, hầu thôi thúc dân trung tín với Thiên Chúa.

    6. Sách Giô-suê (Gs): Kể lại cuộc đời của một vị tướng tên là Giô-suê, từ lúc lãnh đạo dân đánh chiếm Đất hứa và phân chia đất đai; cho đến những diễn từ cuối đời của Giô-suê, nhất là đại hội tại Sikhem.

    7. Sách Thủ lãnh (Tl): Sách kể lại việc các chi tộc Israel lập cư ở Canaan, nhất là giới thiệu về hoạt động của những thẩm phán đã được Thiên Chúa chọn cách đặc biệt để hướng dẫn và giải thoát dân riêng của Người.

    8. Sách Rút (R): Kể về câu chuyện một thiếu phụ người Mô-áp tên là Rút, chồng ba quê ở Belem sang lập cư ở Mô-áp. Sau khi chồng chết bà đã trở về Giuđa với mẹ chồng là bà No-ê-mi và đã cưới Bo-as một người bà con của chồng. Câu chuyện trên đây xây dựng với một mục đích ca ngợi lòng tin tưởng vào Thiên Chúa là Đấng xót thương cả người ngoại bang. Sự kiện Rút được nhìn nhận là tổ mẫu của Đavít đã đem lại cho quyển sách một giá trị đặc biệt, và thánh Má-thêu đã ghi tên bà Rút vào gia phả của Chúa Giêsu.

    9. Sách I Sa-mu-en (Sm): Nói về sự ra đời của vị thẩm phán cuối cùng trong dân tộc Israel có tên gọi là Samuel, mở màng cho chế độ vương quyền; đồng thời tường thuật về cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc thoát khỏi sự đe doạ của dân Philitinh và dân A-ma-lếch.

    10. Sách II Sa-mu-en (Sm): Ghi lại những kết quả chính trị của triều đại Đavít: quân Philitinh bị đẩy lui vĩnh viễn, việc thống nhất đất nước được hoàn toàn, Giêrusalem trở thành kinh đô chính trị và tôn giáo của vương quốc.

    11. Sách I Vua (1 V): Sách các vua ghi lại lịch sử của một dân tộc được Thiên Chúa cứu thoát; đồng thời cũng cho thấy thái độ vô ơn của dân được tuyển chọn. Sự sụp đổ của dân tộc xem ra đã làm hỏng kế hoạch của Thiên Chúa; nhưng người ta thấy luôn luôn có một nhóm trung tín không chịu quỳ gối trước Ba-an, một số sót của Si-on trung tín với giao ước của Giavê.

    12. Sách II Vua (2 V): Ghi lại những nét thăng trầm của lịch sử Israel, sự xuất hiện can thiệp của các tiên tri đối với các vua, giúp cho dân chúng thức tỉnh tinh thần quốc gia và cuộc cải cách tôn giáo. Sự sụp đổ Giêrusalem và đợt đi đầy thứ hai.

    13. Sách I và II Sử biên niên (Sb): Là cuốn sách ghi lại những sự việc của Do Thái giáo vào thời kỳ sau lưu đầy trước năm 300. Tác giả là một người Lêvi nhắc lại cho những người dân cùng thời rằng: đời sống của dân tộc tuỳ thuộc vào sự trung thành với Thiên Chúa. Việc trung thành này hệ tại ở việc tuân giữ lề luật của Chúa và bằng việc phụng thờ Thiên Chúa với lòng đạo đức chân thật.

    14. Sách Ét-ra (Er) và Nơ-khe-mi-a (Nkm): Là sách miêu tả sự trở về Giêrusalem giữa những đổ nát sau cuộc lưu đày, việc xây dựng lại thành thánh và cộng đoàn. Hơn thế nữa, tác giả xác tín rằng đền thờ là dấu chỉ hiện hữu của Thiên Chúa. Cho nên, con người phải biết lo chu toàn việc phụng thờ Thiên Chúa. Ét-ra và Nơ-khe-mi-a là hai vị lãnh đạo đã khôi phục lại Giêrusalem, đền thờ, luật Môsê, việc phụng tự và sự trung thành với nòi giống.

    15. Sách Tô-bi-a (Tb): Là một câu chuyện gia đình Ninivê được Thiên Chúa quan phòng yêu thương. Qua đó tác giả muốn khai triển một ý niệm rất cao trong tinh thần Kitô giáo về hôn nhân: nếu tin tưởng và sống theo đường lối của Thiên Chúa thì sẽ được Ngài che chở và yêu thương.

    16. Sách Giu-đi-tha (Gđt): Sách Giu-đi-tha là câu chuyện về một cuộc toàn thắng của dân Israel trên quân thù là đế quốc Assur, qua sự can thiệp của một người đàn bà tên là Giu-đi-tha. Sự toàn thắng của Giu-đi-tha là phần thưởng cho lời cầu xin và việc tuân giữ luật thanh sạch. Sàch đã được viết tại Phalêtin vào giữa thế kỷ thứ II trước công nguyên.

    17. Sách Ét-te (Et): Kể chuyện một cuộc giải thoát nhờ một người đàn bà tên là Ét-te. Dân Do thái tại đế quốc Batư bi đe doạ tiêu diệt do sự ghen ghét của quan Đại Thần tên là Aman, nhưng đã được cứu thoát nhờ sự can thiệp của Ét-te; một người đồng hương đã trở thành Hoàng Hậu được người cậu là Marđôkê hướng dẫn. Một sự đảo lộn tình thế diễn ra: Aman bị treo cổ, Marđôkê thay chỗ, người Do thái tàn sát kẻ thù.

    18. Sách I Ma-ca-bê (I Mcb): Tác giả Macabê là một người Do thái nhiệt thành với lòng tin vào Thiên Chúa, đã xem những khốn cùng và thất bại của Israel như một trừng phạt tội lỗi mà lòng xót thương của Thiên Chúa muốn dùng sửa trị dân; đồng thời tác giả coi những thành công của các nhân vật là do sự trợ giúp của Thiên Chúa.

    19. Sách II Ma-ca-bê (II Mcb): Không phải là một tác phẩm tiếp theo của Ma-ca-bê I. Sách kể lại cuộc chiến tranh giải phóng do Giu-đa Ma-ca-bê lãnh đạo, được ơn thiêng liêng nâng đỡ và toàn thắng nhờ sự can thiệp của Thiên Chúa. Sách Ma-ca-bê II quả quyết về vấn đề người chết sống lại, những hình phạt đời sau, lời cầu nguyện cho kể chết và công trạng của những người tử vì đạo.

    20. Sách Gióp (G): Sách kể về cuộc đời của một con người có tên là Gióp, đã bị thử thách trăm triều: trước sự tấn công của Satan, của gia đình, của bạn bè. Nhưng ông đã vượt thắng được tất cả nhờ có lòng tin tưởng tuyệt đối vào sự quan phòng của Thiên Chúa tình yêu.

    21. Thánh vịnh (Tv): Thánh vịnh là những lời cầu nguyện của Cựu ước. Chính Thiên Chúa đã gợi lên những tâm tình con cái Người phải có đối với người, và cũng là những lời con người phải dùng để ngõ cùng Thiên Chúa.

    22. Sách Châm ngôn (Cn): Nói về việc Thiên Chúa ân thưởng sự chân thật, bác ái, sự trong sạch của lòng trí, và đức khiêm nhường; đồng thời Chúa cũng xử phạt những ai sống giả dối, ích kỷ, kêu ngạo và lòng trí xấu xa. Nguồn gốc và tóm lược của tất cả các nhân đức là sự khôn ngoan.

    23. Sách Giảng viên (Gv): Ghi lại những lời của Cohelet con của Đavít vua Gierusalem. Trước những hiểu biết, của cải, tình yêu và sự sống; tất cả điều làm cho con người thất vọng khi đứng trước sự chết. Nhưng Cohelet không ngỡ ngàng trước thế thái nhân tình đó, vì mọi sự đều do Thiên Chúa qui định và con người phải đón nhận từ bàn tay Ngài những thử thách cũng như những vui mừng; con người phải tuân giữ các lệnh truyền và kính sợ Thiên Chúa.

    24. Sách Diễm ca (Dc): Được xếp vào loại sách khôn ngoan, vì đã đề cập tới như những sách khôn ngoan khác, thân phận của con người. Đến một trong những khía cạnh cốt thiết của con người. Theo cách diễn tả của mình. Diễm ca giáo dục người đọc về sự tốt lành và phẩm giá của tình yêu giữa người nam và người nữ.

    25. Sách Khôn ngoan (Kn): Salômôn được kể là tác giả của sách. Ong đã nêu lên vai trò của khôn ngoan trong vận mệnh con người và so sánh số phận của người công chính với kẻ gian ác, trong cuộc sống sau khi chết. Ong cũng trình bày về nguồn, bản chất của khôn ngoan và những cách thức thu thập khôn ngoan. Cuối cùng ông đã ca ngợi hành động khôn ngoan của Thiên Chúa trong lịch sử dân Israel.

    26. Sách Huấn ca (Hc): Là quyển sách nói về sự khôn ngoan của Thiên Chúa do Ben Sira rao giảng. Khởi đầu của khôn ngoan là kính sợ Thiên Chúa, khôn ngoan đem lại tươi trẻ và hạnh phúc. Ben Sira tin ở sự thưởng phạt, cảm thấy tầm quan trọng bi đát của giờ chết; nhưng ông chưa biết Thiên Chúa sẽ trả lại cho mọi người theo hành động của họ thế nào? Tác giả đã đồng nhất khôn ngoan với lề luật được Môsê loan báo.

    27. Sách Ngôn sứ Isaia (Is): Tiên tri Isaia luôn ý thức về sứ vụ ngôn sứ của Chúa trao cho ông trong đền thờ. Ong sống niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa là Đấng Thánh, Đấng Quyền Năng, là Vua. Ong luôn hy vọng vào “số sót” trong dòng tộc Đavít sẽ được Thiên Chúa yêu thương cứu chuộc.

    28. Sách Ngôn sứ Giê-rê-mi-a (Gr): Đây là một bộ tự thuật của tiên tri Giêrêmia đã mạnh mẽ giống tiếng cảnh tỉnh dân tộc của mình phải trung thành với Thiên Chúa không được chạy theo các thần ngoại lai; đồng thời ông cũng can đảm vạch rõ những lỗi lầm bất tài của vua Israel. Mặc dù sứ vụ Giêrêmia đã thất bại lúc sinh tiền, nhưng dung mạo của ông vẫn không ngừng lớn lên sau khi ông chết.

    29. Sách Ai-ca (Ac): Sách Ai-ca dành cho ngày kỷ niệm đền thở bị phá huỷ; gồm các bài “điếu tang”, than khóc cánh. Đây là những lời than khóc cảnh hoang tàn và bi đát của thành Giêrusalem. Chính lòng trông cậy kiên vững vào Thiên Chúa trong nỗi đau đớn tuyệt vọng của con người làm nên giá trị bất hữu của những bản ai ca này.

    30. Sách Ê-dê-ki-en (Ed): Đây là bộ sách ghi lại cuộc đời và sự nghiệp của một vị tiên tri sống trong thời kỳ lưu đầy. Qua những thử thách kinh nghiệm riêng tư mà Thiên Chúa đã gởi đến cho ông, cũng là những dấu chỉ cho dân Israel. Ong loan báo Đấng Mêssia sẽ đến thưởng phạt xét xử tuỳ theo việc làm của mỗi người.

    31. Sách Đa-ni-en (Đn): Sách có mục đích nâng đỡ lòng tin và niềm cậy trông của các người Do Thái bị Antiôkhô Ephiphanê bách hại. Đanien và các bạn của ông đã trải qua những thử thách như họ; nhưng các ông đã vượt thắng và những kẻ ra tay bách hại đã phải nhìn nhận quyền năng Thiên Chúa đích thực.

    32. Sách Ba-rúc (Br): Cho chúng ta biết về đời sống tôn giáo của người Do thái ở các cộng đoàn hải ngoại và ảnh hưởng mạnh mẽ của ngôn sứ Giê-rê-mi-a đối với dân Do thái sau biến cố thảm khốc mất thành thánh.

    33. Sách A-mốt (Am): A-mốt là một mục tử tại Tơqoa được Thiên Chúa sai đi nói tiên tri dưới thời Giêrôbôam II (783-743). Nhân danh Thiên Chúa, Amốt đã lên án cuộc sống của những người dân thành thị, những bất công xã hội, những nghi lễ không hồn. Thiên Chúa sẽ sửa phạt và Ngài sẽ cứu thoát nhà Giacóp.

    34. Sách Hô-se (Hs): Hô-sê quê ở phía bắc sinh sống cùng thời với Amốt. Hô-sê là người đầu tiên đã diễn tả những liên lạc giữa Giavê và Israel trong ngôn ngữ của một cuộc hôn nhân. Ong nhấn mạnh về tình thương Thiên Chúa không được dân Người đón nhận hay đã được đáp lại bằng những bội phản.

    35. Sách Mi-kha (Mk): Là người Giuđa quê ở Môrêshêr ông thi hành sứ vụ tiên tri trong những năm 712-701. Mikha có một ý thức rõ rệt về ơn gọi tiên tri của mình, ông loan báo những tai ương xảy tới do tội tôn giáo và tội luân lý. Nhưng Mikha vẫn hé mở hy vọng về sự cứu thoát của Giavê.

    36. Sách Xô-phô-ni-a (Xp): đã rao giảng dưới triều đại Yôsya 640-609. Ong loan báo về hình phạt Giavê sẽ giáng xuống trên dân Israel về lỗi lầm tôn giáo và luân lý do lòng kiêu ngạo và bất phục tùng; nhằm đưa dân về lại con đường vâng phục và khiêm tốn. Sự cứu rỗi chỉ được hứa ban cho một “số sót” khiêm tốn.

    37. Sách Na-khum (Nk): Thi hành sứ vụ tiên tri trong khi dân Israel đánh chiếm Ninivê 612. Sự sụp đổ của Ninivê là một án Thiên Chúa phạt kẻ phá hoại kế đồ của Người. Lời tiên tri nói thay lòng căm tức của Israel đối với kẻ thù truyền kiếp là Assur; đồng thời nói về sự công chính và lòng tin của dân đối với Thiên Chúa.

    38. Sách Kha-ba-cúc (Kb): Thi hành sứ vụ tiên tri đồng thời với Nakhum và Giêrêmia, Habacúc đã đem lại một nét mới mẻ trong cách giáo lý của các tiên tri; Thiên Chúa toàn năng chuẩn bị cho sự toàn thắng cuối cùng của kẻ chính trực công chính sẽ được sống bằng sự trung tín của mình.

    39. Sách Khác-gai (Kg): Nói những lời khích lệ với dân Israel trong việc khôi phục lại đất nước sau thời lưu đầy vào khoảng tháng 8 tới tháng 12 năm 520. Việc xây dựng đền thờ sẽ đem lại kỷ nguyên của thịnh vượng và là điều kiện để Giavê ngự đến ở với dân Người. Như thế thời cứu chuộc cánh chung đã hé mở.

    40. Sách Da-ca-ri-a (Dcr): Viết sách vào khoảng từ tháng 10 năm 520 đến tháng 2 năm 519. Ong chú trọng đến việc tái thiết đền thờ; nhưng ông cũng nhấn mạnh đến việc tái thiết quốc gia bằng sự tinh sạch và luân lý. Dacaria cũng loan báo cách bí nhiệm về sự phục hưng của nhà Đavít và về Đấng bị đâm thâu.

    41. Sách Ma-la-khi (Ml): Thi hành sứ vụ tiên tri vào những năm 514-445. Malakhi nói đến hững lỗi lầm về tế tự và tín hữu; nạn hôn nhân dị biệt và ly dị đồng thời ông cũng loan báo về ngày Giavê sẽ thanh luyện những kẻ gian ác và ban phần thưởng cho những người công chính.

    42. Sách Ô-va-đi-a (Ôv): Là sách ngắn nhất trong các sách tiên tri chỉ có 21 câu. Ong loan báo về hình phạt E-đom và lời hứa Thiên Chúa sẽ cứu độ trong ngày chung thẩm.

    43. Sách Giô-en (Ge): Xuất hiện sau thời lưu đầy, ông loan báo nạn cào cào châu chấu sẽ tàn phá Giuđa đưa đến một nghi lễ phụng vụ tang chay và khẩn nài; ông cũng nói về cuộc phán xét các dân tộc và sự toàn thắng của dân Israel.

    44. Sách Gio-na (Gn): Sách ghi lại câu chuyện của một tiên tri bất tuân muốn tránh sứ vụ tiên tri của mình. Sách có mục đích giáo huấn cho những đe doạ là những biểu hiện của lòng thương xót của Thiên Chúa, Đấng chỉ chờ một dấu hối cải để ban ơn tha thứ.

    45. Tin Mừng Mathêu (Mt): Nói về gốc tích và những năm tháng đầu đời của Chúa Giêsu và Ngài đi rao giảng Tin mừng Nước Trời, các mầu nhiệm Nước Trời cũng như Nước đã gần đến. Cuối cùng là nói đến cuộc thương khó và phục sinh của Ngài.

    46. Tin Mừng Macô (Mc): Tường thuật lại sự kiện Giáng sinh và thời thơ ấu của Chúa Giêsu; nhắc đến sứ mạng dọn đường của Gioan Tẩy Giả và việc Chúa Giêsu chịu phép rửa và chịu cám dỗ. Ngoài ra, Thánh sử Mácô nhấn mạnh đến sự tương quan của Chúa Giêsu với mọi người và hé mở mầu nhiệm Con Người Đức Kitô, đến trần gian diễn tả tình yêu qua biến cố tử nạn và phục sinh.

    47. Tin Mừng Luca (Lc): Tin Mừng Thánh Luca đặc biệt nhấn mạnh đến lòng thương xót, bao dung, tha thứ của Đức Kitô. Đặc biệt là các giáo huấn của Chúa Giêsu về việc ăn năn sám hối, cầu nguyện và sống bác ái yêu thương; đồng thời Luca cũng gieo rắc niềm vui trước lời loan báo ơn cứu độ, trước các phép lạ, những lần Chúa Giêsu hiện ra; Chúa Thánh Thần hoạt động trong Giáo Hội. Đặc biệt nơi Luca chan chứa hoan lạc vì ơn cứu độ đã có được ngày hôm nay.

    48. Tin Mừng Gioan (Ga): Khác với Tin Mừng nhất lãm, Gioan muốn chứng minh Đức Giêsu là Ngôi Lời của Thiên Chúa đã hiện hữu ngay từ lúc khởi đầu, là nguồn mạch sự sống của nhân loại, là ánh sáng thật đến giữa thế gian, là Đấng mạc khải cho nhân loại biết khuôn mặt đích thực của Thiên Chúa Cha. Thêm vào đó, Chúa Giêsu sử dụng ngôn ngữ của con người trong quyền năng của một Thiên Chúa, để mở cho nhân loại thấy tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa, cũng như sự sống đời đời được khai mở nơi chính Ngài.

    49. Sách Công vụ tông đồ (Cv): Tường thuật những hoạt động truyền giáo của hai vị thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô. Vì vậy, có thể so sánh Công vụ tông đồ là sách lịch sử về Hội thánh sơ khai; đồng thời tác giải yêu cầu đế quốc Rôma nhìn nhận Kitô giáo được tự do về mặt tôn giáo và có quyền bình đẳng với các tôn giáo khác trong đế quốc.

    50. Thư gởi tín hữu Rôma (Rm): Đang khi rao giảng ở Côrintô thánh Phaolô được ông Aquila và bà Picilia cho biết về tình trạng của giáo đoàn Rôma. Thánh nhân đã viết thư gởi cho tín hữu với nội dung: Tin mừng là sức mạnh Thiên Chúa dùng để cứu độ mọi người, trước là người Do thái sau là người Hy lạp và ngài nêu lên một số điểm thực hành cho các tín hữu.

    51. Thư I & II gởi tín hữu Cô-rin-tô (Cr) Thánh Phaolô thành lập giáo đoàn Côrintô trong chuyến chuyền giáo thứ hai khoảng năm 50-52. Vì đức tin kitô hữu còn non trẻ cần tìm một mảnh đất mầu mở Kitô giáo để có thể lớn lên. Thánh Phaolô đã hướng dẫn các tín hữu ý thức hội nhập đức tin kitô giáo vào nền văn hoá ngoại giáo.

    52. Thư gởi tín hữu Ga-lát (Gl): Sau khi thánh Phaolô rời Galát, các tín hữu gốc Do thái từ Giêrusalem đến làm lung lạc đức tin của anh em tín hữu gốc lương dân. Họ đòi buộc các tín hữu phải giữ luật Môsê, nhất là luật cắt bì. Cho nên, thánh Phaolô viết thư biện minh về sứ vụ tông đồ của mình và tuyên bố ơn công chính không do làm việc luật dạy, nhưng là bởi lòng tin vào Chúa Giêsu Kitô, đồng thời ngài khuyên các tín hữu bám chặt vào Chúa Giêsu sống theo ơn Chúa Thánh Thần, nhất là sống bác ái.

    53. Thư gởi tín hữu Ê-phê-sô (Ep): Thánh Phaolô trình bày mầu nhiệm Thiên Chúa thực hiện chương trình cứu độ, mà Người đã sắp đặt từ bao đời trước. Mầu nhiệm quy tụ muôn loài dưới quyền Thủ Lãnh là Đức Kitô. Kêu gọi chiêm ngưỡng công trình Thiên Chúa thực hiện qua Đức Kitô và khuyên đọc giả sống kết hiệp với Đức Kitô.

    54. Thư gởi tín hữu Phi-li-phê (Pl): Đây là một trong những bức thư chan chứa tình cảm. Thánh Phaolô viết trong lúc Ngài bị cầm tù, ngài vui mừng và hoan lạc trong cảnh tù đầy của mình; đồng thời Thánh nhân khuyên giáo đoàn Philiphê sống đức tin vững vàng, hiệp nhất với nhau và đề phòng những người không trung tín với Tin mừng.

    55. Thư gởi tín hữu Cô-lô-xê (Cl): Trong khi thánh Phaolô đang bị cầm tù ở Rôma, nhận được tin giáo đoàn Côlôxê đang bị đe doạ đời sống đức tin. Thánh nhân viết thư đề cao quyền tối thượng của Chúa Kitô và khuyên nhủ các tín hữu đề cao cảnh giác đối với những người gieo rắc những sai lầm. Ngài nhắc lại một số điểm cần thực hiện trong gia đình, cộng đoàn và xã hội.

    56. Thư I gởi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca (Tx): Vào khoảng năm 50 khi thánh nhân ở Côrintô, nhận được tin giáo đoàn Thêxalônica đã gặp những điều cần giải quyết về luân lý cũng như giáo lý Chúa quang lâm. Với những lời đậm đà tình thương nhưng rất đanh thép, đã củng cố được đức tin non yếu của tín hữu, đồng thời khẳng định về giáo lý Chúa quan lâm cho những người Do thái cứng lòng tin.

    57. Thư II gởi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca (Tx): Thánh Phaolô viết thư trấn an và chỉnh đốn cộng đoàn về việc chờ đợi Chúa quang lâm. Thánh nhân khẳng định phải có những dấu hiệu báo trước khi Chúa đến ; những cuộc khủng bố bắt bớ các kitô hữu; tiếp theo là bỏ đạo quy mô, sau cùng là tên gian ác xuất hiện.

    58. Thư I gởi ông Timôthê (Tm): Sau khi ra khỏi tù ở Rôma đã viết thư này gởi cho người đồ đệ thân tín mà thánh nhân đã đặt lên thay ngài coi sóc giáo đoàn. Nội dung lá thư đưa ra những chỉ dẫn giúp Timôthê tổ chức, điều khiển cộng đoàn và khuyên trung thành với giáo lý.

    59. Thư II gởi ông Ti-mô-thê (Tm): Viết vào năm 67 gởi cho ông Timôthê. Đây là một lá thư mục vụ, thôi thúc những ai có trách nhiệm trong cộng đoàn hãy kiên trì chịu thử thách, hăng hái rao giảng Tin mừng và chống lại những người dạy giáo lý sai lạc với luân lý, tín lý, niềm tin.

    60. Thư gởi ông Ti-tô (Tt): Trước những bức xúc của người lãnh đạo cộng đoàn, thánh Phaolô viết thư gởi cho Titô, một tín hữu gốc Do thái và bạn đồng hành với Phaolô. Trong lá thư mục vụ, thánh nhân nhấn mạnh những đức tính cần có của người đứng đầu cộng đoàn; đồng thời nhắc nhở các tín hữu về bổn phận của họ.

    61. Thư gởi ông Phi-lê-môn (Plm): Ong Philêmôn là một nhân vật quan trọng ở Côlôxê, là người khá giả đã trở lại theo đức tin Kitô giáo, biết đem của cải và uy tín để giúp đỡ cộng đoàn. Ong Phaolô quý mến và gọi ông là cộng sự viên. Trong thư ông Phaolô tế nhị, không áp đặt, không truyền lệnh ông Philêmôn nhận người nô lệ ăn cắp Onênximô như một người nhà trong tình yêu Đức Kitô.

    62. Thư gởi tín hữu Do thái (Dt): Thời gian đầu cộng đoàn kitô hữu gốc Do thái (Do thái giáo qua Kitô giáo) gặp khủng hoảng, đức tin hoang mang. Tác giả viết thư này nhằm trấn an, củng cố đức tin, nền tảng đạo đức và sự canh tân đời sống đức tin chính là Đức Kitô.

    63. Thư của Thánh Gia-cô-bê (Gc): Thư này nhằm mục đích đến luân lý, thánh nhân nhấn mạnh đến cách cư xử giữa người với nhau, khuyên giữ miệng lưỡi, kiên tâm bền chí khi bị thử thách để chứng minh niềm tin, đồng thời coi trọng người nghèo.

    64. Thư thứ I của Thánh Phêrô (1 Pr): Giữa lúc các Kitô hữu bị lưu vong sang đế quốc Rôma, số tân tòng ngày một đông, thánh Phêrô viết thư nhằm khuyên nhủ, động viên và hướng dẫn đời sống đức tin cho những anh chị em tín hữu gia nhập đạo; đồng thời ngài nhấn mạnh bổn phận người Kitô hữu với Hội Thánh.

    65. Thư thứ II của Thánh Phêrô (2 Pr): Qua những thăng trầm đức tin, tác giả hướng đến các tác giả sơ khai khám phá và sống theo chân lý, đó là: người tín thông phần vào sự sống của Chúa Kitô, được Chúa dạy dỗ qua các ngôn sứ, tông đồ.

    66. Thư I, II, III của Thánh Gioan (Ga): Khi thấy giáo đoàn tín hữu sơ khai một số tác gieo rắc những học thuyết sai lạc. Thánh Gioan viết thư 1 và 2 nhằm chống lại những người lạc đạo đó; đồng thời giúp các tín hữu đề phòng những người theo thuyết ngộ đạo, bằng việc sống bác ái yêu thương. Trong lá thư thứ 3 tác giả nói đến cách sống và cư xử của người tín hữu.

    67. Thư của Thánh Giuđa (Gđ): Khi các tín hữu Do thái trở lại đạo Công giáo, vì niềm tin còn non yếu, họ bị gieo rắc những tư tưởng ngược với niềm tin Kitô giáo. Trước tình hình đó, Thánh Giuđa đã viết bức thư dặn dò anh em tín hữu sơ khai đừng nghe theo một số người xấu, đã len lỏi vào các cộng đoàn, gieo rắc lối sống và tư tưởng sai lạc.


    68. Sách Khải huyền (Kh): Giữa lúc các tín hữu sơ khai đang bị hoàng đế Nê-rô bách hại. Một số các tín hữu chán nản thất vọng trước cơn bách hại và dường như muốn đầu hàng. Tác giả đã dùng thể văn khải huyền với loại ngôn ngữ biểu tượng và đầy hình tượng; ông đã khuyên nhủ các tín hữu phải sống dũng cảm, củng cố đức tin, niềm trông cậy và lòng trung thành của họ với Đức Kitô và thời đau khổ sắp chấm dứt.

    CÓ THỂ BẠN MUỐN XEM

             

    Friday, September 29, 2017



    Người ta nói đi tu đã khó, làm bà cố lại khó hơn. Nhưng có lẽ bà cố nghèo lại khó hơn cả.

    ***

    Quanh năm buôn bán ngoài chợ, bà cũng quanh quẩn với gánh bún riêu. Cũng chẳng hiểu vì sao thằng con của bà lại đi tu. Nó nói con đi tu để má được làm bà cố. Nghe cũng thích nhưng sao thấy xa vời quá!

    ***

    Rồi nó bỏ bà đi cái rụp.

    ***

    Mấy bà ngoài chợ bàn tán đâu phải muốn đi tu là được. Còn phải học đại học, học tiếng anh tiếng em gì đó rồi thi vào Dòng. Rồi các cha bỏ phiếu xét xem có được không nữa. Mà cái quan trọng là phải có tiền. Đi tu tốn tiền học tiền hành dữ lắm. Đấy, con bà Sáu bán cá đi tu mà có được đâu. Bả nghèo, không có tiền cho nó đi học. Cũng có mấy người bạn nói đứng ra lo cho nó ăn học. Nhưng đời chẳng ai cho không cái gì bao giờ bà ơi! Người ta đòi hỏi điều kiện lung tung. Tội! Thằng đó cũng hiền lành chứ bộ!

    ***

    Khó vậy, nhưng chẳng bao giờ thấy nó than thở hay chia sẻ gì với bà. Mấy lần nó về thăm bà, bà hỏi con có cần tiền cần bạc gì không để má lo cho con. Nó nói:

    - Con của Chúa mà má, Chúa lo!
    - Thì Chúa lo nhưng mình cũng phải cộng tác chứ. Má bán bún không dư dả gì, nhưng cũng tằn tiện lo cho con được.
    - Không sao đâu má, con đi tu, không có người lo cho má, má cứ để tiền đó đề phòng khi bệnh tật không có ai lo.
    ***

    Mười mấy năm với biết bao thay đổi và chờ đợi, mái tóc bà bạc phơ cũng là lúc con bà báo tin vui sẽ được chịu chức vào tháng tới. Còn gì vui mừng hơn nữa. Bà vẫn gánh bún riêu đi bán mà miệng lúc nào cũng tươi cười. Người ta nói gần nói xa: “bà cố sướng ghê! Con trai sắp vinh quy bái tổ còn gì!” Nghe cứ như rưng rức vào lòng. Vui buồn lẫn lộn. Rồi tạ ơn làm sao, rồi Thánh lễ làm sao? Nghĩ vậy, bà mở tủ lấy ra chiếc hộp đựng tiền mà bà dành dụm mười mấy năm nay. Chỉ mong sao đến ngày con thành tài có chút tiền lo cho con. Người ta cả chục đứa con còn lo cho hết thảy được, đàng này mình chỉ có mỗi một đứa, cũng lo không xong. Thân già cứ bệnh lên, bệnh xuống, bữa nào khỏe thì gánh bún đi bán, hễ mệt thì nằm ở nhà. Thằng con đi tu mười mấy năm cũng thi thoảng về thăm nhưng được mấy lần. Mỗi lần về, nấu cho nó bữa cơm, mà lần nào cũng vậy, chưa kịp ăn nó đã vội đi.

    “Hai mươi lăm triệu, sáu trăm ngàn.” Bà đếm đi đếm lại mấy lần, rồi cẩn thận gói tất cả vào một túi ni lông. Định bụng khi con về thì trao cho con mua cái chén lễ. “Quà của má! Mà con nhớ khắc tên của má dưới đáy chén lễ, má muốn con dâng lễ thì luôn có má bên cạnh.” Chỉ nghĩ đến đó thôi mà lòng bà vui lắm. Bà cười thầm.

    ***

    Hôm cậu con trai về làm giấy tờ chịu chức, bà đang định đưa tiền cho con, thì con trai đã nói:

    - Má cứ yên tâm. Có người lo hết rồi! Con đã nói rồi, con của Chúa thì Chúa lo. Má lo làm gì!
    - Thì cũng biết vậy, nhưng làm mẹ mà không lo được cho con thì chẳng có gì buồn hơn nữa - bà nghĩ bụng.
    Cậu con trai nói tiếp.
    - Ngày con chịu chức má không phải lo gì hết. Bữa đó má đi lễ thôi. Còn mọi việc có ba mẹ nuôi của con lo rồi.
    - Ba mẹ nuôi nào? Bà ngạc nhiên hỏi lại.
    - Thì ba mẹ nuôi con mười mấy năm nay. Má bán bún, không có tiền lo cho con ăn học và tu trì. Ba mẹ nuôi đỡ đầu cho con ăn học. Ba mẹ nuôi thương con lắm.
    - Trời đất ơi, người ta tốt thế, sao con không nói với má bao giờ - bà trợn trừng mắt vì ngạc nhiên, nói với con.
    - Thì giờ con nói đó. Mà bữa đó, khi trao áo cho Tân linh mục, má cứ ngồi ở ghế, để ba mẹ nuôi đưa lên cho con được rồi. Mình chịu ơn người ta. Giờ mình cho người ta vinh dự một chút.
    - Ừ, thì má biết mà, con yên tâm.

    ***

    Bà nói vậy nhưng sao nghe nghẹn ở cổ họng! Làm sao mà không buồn cho được, con mình sinh ra, mình nuôi lớn, rồi người ta giúp đỡ đâu được vài triệu, lo cho con mình ăn học, vậy mà người ta tự cho mình cái quyền lấy luôn cái danh hiệu làm mẹ của mình. Câu nói: “Đời chẳng ai cho không cái gì bao giờ” của mấy bà ngoài chợ năm nào giờ sao nghe thấm thía đến thế. Chỉ nghĩ đến đó thôi, bà đã không cầm được nước mắt. Nhưng đã hy sinh nhiều rồi, giờ hy sinh nữa cũng đâu có gì là lạ. Tất cả là vì con và hạnh phúc của con thôi mà. Nghĩ vậy để tự an ủi mình.

    ***
    Ngày chịu chức linh mục đã đến, sau khi Đức Giáo Mục đặt tay, lần lượt các ông bà cố tiến lên gian cung thánh trao áo cho các Tân linh mục. Bà ngồi yên không nhúc nhích, mắt ráo hoảnh nhìn con trai của bà. Một cặp vợ chồng trẻ, quần áo sang trọng tiến bước lên gian cung thánh trao áo cho con của mình. Đâu đó có tiếng khen: “Trời ơi, ông bà cố gì mà trẻ đẹp thế!”

    Bà không khóc, nhưng sao nước mắt lại cứ trào ra như không gì có thể ngăn cản được.

    Cuối thánh lễ, bà lặng lẽ bước ra ngoài để lại đằng sau một đám người đang vây quanh con trai của bà chụp ảnh. Bà thoáng nghĩ: Không! Tân Linh Mục mới phải. Cha đâu chỉ là con của mình, con của người ta. Mà không! Con của Chúa…

    Bước ra đài Đức Mẹ, bà ngước mắt nói trong nghẹn ngào:
    - Mẹ ơi, Mẹ có một mình Chúa Giêsu là con, con cũng chỉ có mỗi một đứa. Con đã dâng con của con cho Chúa như xưa Mẹ cũng dâng Chúa Giêsu cho Chúa Cha. Xin Mẹ thêm ơn cho con vững mạnh để chấp nhận thực tế: con của con đã là con của mọi người chứ không còn là của riêng con nữa, như xưa Chúa Giêsu đã trối Mẹ cho thánh Gioan vậy.

    Bên ngoài, nắng lên cao!

    Phúc ! dậy, trễ giờ đi lễ rồi kìa - giọng cha quản lý gọi to.

    Nó mở mắt, rồi cười...chỉ là mơ...

    MA.PHUC,sss

    †.Ngài Gọi Con Blog.†

    "Dạ con đây, xin sai con đi".

    "Vì lời Thầy, con sẽ thả lưới"

    †.Ngài Gọi Con Blog.†
    Khiết tịnh

    Các con muốn người ta làm cho mình thể nào, hãy làm cho người ta thể ấy. (Lc 6:31)

    †.Ngài Gọi Con Blog.†
    Khó nghèo

    "Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ.(Mt5.3)

    †.Ngài Gọi Con Blog.†
    Vâng phục

    GÓC ĐỒ HỌA

    Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện.(Mt5.48)

    NHẬN THIẾT KẾ LOGO, PHÔNG MÀN, THIỆP MỪNG CÁC THỂ LOẠI

    Liên hệ ngay thông tin bên dưới

    • Giáo Phận.
    • 0163652
    • ngaigoicon@gmail.com
    • https://ngaigoicon.blogspot.com/