Saturday, April 30, 2016
†.Ngài Gọi Con.†- Có phải đi tu..........?!
Đi tu có phải đi tù?
Đi tu có phải như mù đi đêm?
Có phải?
Đi tu là chán cõi đời?
Đi tu là hết cái thời mộng mơ?
Đi tu là quá dại khờ?!
Hay tu là sẽ thờ ơ với tình?
Hay tu là sống một mình,
đơn thân độc mã giữa nghìn người ta?
Hay tu vì sợ thăng hoa?
Hay tu là để lánh xa cõi trần?!
Hay tu để được hưởng phần,
an nhàn thư thái chẳng cần phải lo?
Mà: Tu là yêu lắm cuộc đời.
Là theo lý tưởng tuyệt vời ai ơi.
Là theo tiếng Chúa kêu mời.
Là theo tiếng gọi vào đời dấn thân.
Đi làm chứng giữa gian trần
Loan tình yêu Chúa xa gần khắp nơi.
Đi sâu vào giũa lòng đời
Quên mình để sống ba lời Phúc Âm.
Để tình yêu Chúa âm thầm
Vươn mình lớn dậy trong niềm mến tin.
Đi tu không sống một mình
Nhưng tu là sống bỏ mình vì yêu.
Đường tu chẳng phải thẳng êm
Nhưng tình yêu Chúa hóa mềm mọi nơi.
Tu vì con mến Chúa trời
Tu vì con muốn sống vì tha nhân.
Tu thì thư thái tấm thân
Tu vì có Chúa ở gần kề bên.
Wednesday, April 27, 2016
ღ ღ ღ † † †-Ngài Gọi Con-ღ ღ ღ † † †- Một chút suy tư về "Ta ru"
TU XUẤT ?
Tu xuất, vốn dân “thơ thẩn” TỰ ĐIỂN ĐỜI THƯỜNG.. văn chương thường ví von là “ta ru”. Trong đó, vừa có cái gì như buồn buồn cho một hành trình đã qua… lại vừa mang mác có một chút gì đó tiếc nuối.. nhưng cũng bàng bạc một chút hãnh diện ít nhiều khi mà người “ta ru” đã được hưởng một nền tảng giáo dục huấn luyện chuẩn mực nhất định nào đấy… có thể đang làm nên chính con người mình….và khi đã.. yên bề gia thất họ cũng cảm thấy vui
khi.. được “mừng thằng bạn mình” được làm cha.. hay thậm chí làm… Đức Cha, hoặc “ con nhỏ rất thân cùng lớp với mình” làm bề trên nhà, hay bề trên tổng quyền…! Theo thói thường, dân “ta ru” dễ bị lên án chung là phản bội lại ơn Chúa…hay thế này thế nọ. Tuy nhiên, công minh mà xét, thì mỗi người có một hoàn cảnh... đáng thương khác nhau.. và sức đón nhận ơn Chúa cách khác nhau…mà chỉ có …Chúa biết rõ và ..người huấn luyện có thể biết một phần ..và chính đương sự có thể khi …về ..già sẽ hiểu rõ mình hơn ! Dưới đây là tâm tư -có lẽ là- của một người “ ta ru”, rất chân tình và tha thiết đang trải lòng mình ra trước vấn đề tế nhị…dễ làm mủi lòng và mặc cảm này ! Hy vọng mỗi người chúng ta có cái nhìn rộng mở và lạc quan hơn về vấn đề này.
khi.. được “mừng thằng bạn mình” được làm cha.. hay thậm chí làm… Đức Cha, hoặc “ con nhỏ rất thân cùng lớp với mình” làm bề trên nhà, hay bề trên tổng quyền…! Theo thói thường, dân “ta ru” dễ bị lên án chung là phản bội lại ơn Chúa…hay thế này thế nọ. Tuy nhiên, công minh mà xét, thì mỗi người có một hoàn cảnh... đáng thương khác nhau.. và sức đón nhận ơn Chúa cách khác nhau…mà chỉ có …Chúa biết rõ và ..người huấn luyện có thể biết một phần ..và chính đương sự có thể khi …về ..già sẽ hiểu rõ mình hơn ! Dưới đây là tâm tư -có lẽ là- của một người “ ta ru”, rất chân tình và tha thiết đang trải lòng mình ra trước vấn đề tế nhị…dễ làm mủi lòng và mặc cảm này ! Hy vọng mỗi người chúng ta có cái nhìn rộng mở và lạc quan hơn về vấn đề này.
Có lẽ từ thời các Thầy giảng xa xưa, cụm từ “Tu xuất”, “Thầy xuất”, “Nhà thầy” đã được bà con giáo dân cũng như hàng giáo sĩ dành cho những người đã có một thời gian tu học trong các chủng viện, nhà dòng với ít nhiều mỉa mai, châm biếm. Ngày nay, cuộc sống đã khác, giáo dân không còn quanh quẩn bên giáo xứ nhưng “vẫn dai dẳng tồn tại một vài ý nghĩ sai lầm, ít nhất là thiếu công bằng về “giới tu xuất. Người chủng sinh trở về gia đình, không tu học nữa là y như rằng sẽ bị gán cho là “ham mê sự thế gian”! Hơn bốn mươi năm trước khi vào Tiểu Chủng viện, chúng tôi mới là những cậu bé 10, 11 tuổi và một năm, thời gian ở trong nhà trường nhiều gấp ba lần ở thế gian nên có biết mặt mũi “sự thế gian” như thế nào đâu mà ham mê! Có nhiều chú về lúc 14-15 tuổi, chắc chắn chưa có dịp thấy nhãn tiền “sự thế gian”, ấy vậy mà cứ phải mang danh “thầy xuất ham mê sự thế gian” cho tới già với tất cả hàm ý chẳng hay ho gì. Lại có người nghĩ rằng những ai đã “ăn cơm nhà Đức Chúa Trời” mà bỏ về thế gian thì thế nào cũng phải “trả lẽ trước mặt Chúa” và nếu như trong giáo xứ có gia đình anh chị em cựu tu nào đó sống không hạnh phúc hoặc nghèo khổ thì rất dễ bị chụp mũ là “Chúa phạt”! Thời chúng tôi vào Chủng viện đều có đóng tu phí. Nhiều hay ít cũng là đóng góp. Và nếu như cơm nhà Chúa có “chất lượng hơn hẳn” cơm thế gian đi nữa thì chắc chắn cũng không vì thế mà Chúa bắt những ai đã có thời gian ăn cơm nhà Ngài phải trả món nợ kia một cách nặng nề và dai dẳng như lối suy nghĩ của một số người. Trong thực tế, nhìn chung, anh em cựu tu đều có cuộc sống gia đình êm ấm, ổn định. Nhiều người đã rất thành đạt, có địa vị cao trong xã hội. Tùy theo môi trường làm việc, anh em ấy vẫn âm thầm sống đạo, truyền giáo với những phương cách riêng rất hiệu quả.
Tất cả đều giữ gìn những kỷ niệm khó quên của những năm tháng sống trong Chủng viện, nhà dòng với tâm tình yêu mến, biết ơn. Ở một góc nhìn nào đó, đi theo Chúa cũng như tham dự một cuộc chạy đua đường dài, bao giờ cũng chỉ một số ít về đến đích mặc dù ở điểm xuất phát đã có rất đông người. Ngày xưa, các chú nhỏ vừa học xong cấp một xin vào Chủng viện đi tu thường do gợi ý của các cha, các dì phước ở xóm đạo, đôi khi các em đi tu vì những lý do rất ngộ nghĩnh: thích đá banh, thích mặc đồng phục trắng. Có mấy chú đi tu chỉ vì thích sợi chuỗi dài kêu sột soạt của các cha Đa minh, Chúa cứu thế đeo bên hông! Có mấy ai biết rằng mình đang bắt đầu một cuộc chạy đua mà chỉ với ý thích thôi, chưa đủ. Đến năm 17-18 tuổi, người chủng sinh – qua sách vở tu đức, qua trao đổi với cha linh hướng – bắt đầu nhận ra con đường mình đang đi thì cũng chính là lúc họ nhìn lại mình, suy nghĩ, lựa chọn… Trong một tờ nội san viết về tâm tư của một đệ tử trước quyết định lên nhà tập tôi đọc được mấy câu thơ: “Con gục đầu bâng khuâng suy nghĩ Đây, lạy Chúa, những tháng ngày khủng hoảng của đời con…” Câu thơ hồn nhiên tuổi học trò đã phần nào cho thấy những suy tư, ray rứt của người thanh niên trước lúc quyết định mặc áo dòng lên Đại Chủng viện, Nhà tập, hoặc rẽ qua con đường khác. Có người quyết định thật nhẹ nhàng; nhưng với nhiều bạn đây không phải là một quyết định dễ dàng. Phần đông anh em rất ngại khi đã mặc áo dòng rồi lại cởi ra trở về đời.
Thế nhưng nhiều anh em đã rất thật với lòng mình, can đảm chọn con đường khác. Cũng có nhiều trường hợp không dứt khoát, phân vân trong quyết định, nhà trường sẵn sàng để anh em về gia đình, học lên đại học một thời gian gọi là “đi thử” để tiếp tục tìm hiểu. Trước những ngã đường, người chủng sinh vừa lắng nghe tiếng Chúa mời gọi vừa nhìn lại con đường đã qua cùng những suy tính cho cuộc hành trình dài trước mặt chắc chắn không trải toàn hoa hồng, thảm đỏ… Như thế việc hồi tục của người chủng sinh là kết quả của những chuỗi ngày suy nghĩ, cầu nguyện, bàn bạc chứ đâu chỉ là những quyết định bồng bột, nông cạn của tuổi trẻ vì những ham mê, quyến rũ nhất thời nào đó. Với những bạn này, không phải họ không tin vào sự nâng đỡ, dìu dắt của Chúa nhưng hơn ai hết, họ hiểu rõ chính mình và con đường mình đang đi. Chúng ta thông cảm và – có thể là hơi cường điệu – nể phục những con người ấy. Đã không thiếu những cá nhân do chưa đủ chín chắn trong suy nghĩ, vững vàng trong quyết định để rồi khi trở thành linh mục, giáo sĩ đã không đủ bản lĩnh vượt qua những thử thách, gây bao tiếng xấu cho giáo hội. Bên cạnh đó nhiều anh em thôi việc tu học vì những lý do hoàn toàn khách quan như thiếu sức khỏe, không theo kịp việc học hành… Đặc biệt biến cố 1975 đã khiến một số đông anh em bỏ dở con đường mình đã chọn mà tôi biết trong số ấy có nhiều anh em nếu được tiếp tục đào tạo sẽ trở thành những linh mục, giáo sĩ tốt, rất tốt cho giáo hội.
Bằng chứng có những anh em khi bước chân ra đời đã phục vụ Giáo hội một cách tích cực và say mê.Người thì tham gia vào ban hành giáo trong giáo xứ, hoặc phụ trách ca đoàn... Kẻ thì trở thành nhạc sĩ, văn sĩ để tiếp tục lý tưởng mang Chúa đến cho mọi người. Ngay trong mái trường chủng viện ngày xưa mà tôi tu học cũng đã có những anh em bây giờ trở thành những nhạc sĩ tên tuổi làm cho nền thánh ca của giáo hội ngày càng phong phú để chuyển biến nhạc thành lời ca, tâm tình cầu nguyện. Những sáng tác của họ đã nâng nhiều tâm hồn lên cùng Chúa, và giúp Kitô hữu tham dự Phụng vụ cách tích cực hơn, đồng thời cảm nghiệm sâu xa được tình yêu vô vị lợi của Ngài. Những đóng góp đó thực tế không nhỏ. Việc người tu sinh bỏ dở con đường mình đi không có nghĩa là họ đã bỏ cuộc. Vì cuộc sống của người giáo dân vẫn là một cuộc chạy đua để thắng cái xấu, cái “con người cũ”. “Chúa gọi thì nhiều mà chọn thì ít”, (câu nói quen thuộc trong nhà đạo khi nói về ơn Thiên triệu); nhưng chúng ta lại không quen nhìn khía cạnh tích cực của câu nói ấy. Anh em xuất tu trở về xứ đạo, cứ để họ hòa nhập vào cộng đồng dân Chúa, đừng nhìn họ như một “giới”, một “thành phần” nào khác và chắc cũng không cần phải cầu nguyện cách riêng cho họ. Muối, men trong họ có thể mặn, nhạt hơn người khác cũng là chuyện bình thường, không sao cả. Và như thế chắc là sẽ có ý nghĩa hơn việc hàng năm chúng ta góp vào quỹ Thánh Phêrô vài ba chục ngàn đồng để rồi cứ giữ mãi cách nhìn thiếu thân thiện, lối suy nghĩ cũ kỹ, đôi lúc rất hàm hồ đối với những người anh em mà đáng lẽ, thay vì mặc cảm, họ luôn “vui dường nào khi thiên hạ bảo tôi… là dân tu xuất”.
Tác giả: Văn Quyền
Tuesday, April 26, 2016
ღ ღ ღ † † †-Ngài Gọi Con-ღ ღ ღ † † †- Đi tu
Tại sao em cứ cất bước ra đi
Để lại sau lưng bao ý tưởng
Đã nung nầu khi tuổi còn thơ
Em ơi! Đời tu khổ lắm đó!
Bước theo Ngài rất đỗi gian nan
Thánh Giá nặg trên đôi vai em gầy nhỏ
Tôi sợ rằng, em sẽ quỵ ngã trên đường đi
Em ơi! biết đi tu là khổ
Sao em vẫn cười, thanh thản và bình an
Em khẽ nói tất cả vì tình yêu
Vì tình yêu đáp trả lại tình yêu
Tình yêu Ngài gọi mời em đó!
Tôi biết rồi, em ơi tôi đã hiều
Tình yêu Ngài làm em lớn mạnh
Giúp em đi đến chẳng ngại ngần
Em tôi ơi! Dũng cảm lên em nhé!
Có Ngài ở bên rồi ta sẽ chẳng sợ chi
Thánh Giá kia rồi sẽ nở hoa
Nở rộ những bông hoa tươi thắm
Của tình yêu em với tình Ngài
Em ơi! Tôi luôn nguyện cầu cho em
Em hãy thưa với Ngài hai tiếng
“Xin vâng” theo Chúa suốt cuộc đời
Và em ơi, hãy nói thế này em nhé!
Ôi yêu lắm! Đời tu ơi!
Monday, April 25, 2016
ღ ღ ღ † † †-Ngài Gọi Con-ღ ღ ღ † † †-Tiên Tri Daniel
The Book of Daniel Bộ phim là câu chuyện về tiên tri Daniel, dựa trên sự việc được ghi lại trong Kinh Cựu Ước, thời Jerusalem bị xâm chiếm và dân tộc phải lưu đày tại Babylon.
Câu chuyện về Daniel và 3 người bạn, những người vẫn 1 mực kính phục và vâng giữ điều răn luật lệ của Thiên Chúa, Ngài nâng đỡ, giữ gìn họ, dù họ có bước vào lò lửa hừng hay trong hang sư tử cũng không tổn hại gì – Vì Ngài ở bên họ.
Câu chuyện về Daniel và 3 người bạn, những người vẫn 1 mực kính phục và vâng giữ điều răn luật lệ của Thiên Chúa, Ngài nâng đỡ, giữ gìn họ, dù họ có bước vào lò lửa hừng hay trong hang sư tử cũng không tổn hại gì – Vì Ngài ở bên họ.
ღ ღ ღ † † †-Ngài Gọi Con-ღ ღ ღ † † †-Câu chuyện Chúa Giáng Sinh

Quốc gia:Mỹ
Đạo diễn:Catherine Hardwicke
Cuộc đời Chúa Cứu Thế và đặc biệt Câu chuyện Giáng sinh là đề tài không bao giờ cũ của các nghệ thuật, âm nhạc và điện ảnh. Xin giới thiệu phim "Câu Chuyện Chúa Giáng Sinh" do hãng New Line sản xuất, với sự điều khiển của đạo diễn Catherine Hardwicke. Phim khởi sự với cuộc tàn sát trẻ em, các thánh Anh Hài tại Bêlem. Sau đó như tìm lời giải thích nguyên nhân Hêrođê tàn sát những trẻ thơ vô tội, bộ phim tưởng nhớ lại câu chuyện thời thơ ấu trong các sách Tin Mừng...
ღ ღ ღ † † †-Ngài Gọi Con-ღ ღ ღ † † †-Thánh nữ Faustina
Thánh nữ Faustina Kowalska sinh ngày 25/8/1905 ở Glogowiec, nước Ba Lan và qua đời tại Cracovia năm 1938, lúc mới có 33 tuổi. Faustina là con thứ 3 trong đại gia đình gồm 10 anh chị em của một gia đình nông dân rất sùng đạo. Lúc 16 tuổi, Faustina làm việc trong những gia đình khá giả. Năm 20 tuổi, Faustina xin vào tu tại Dòng các Nữ tu Đức Trinh Nữ rất thánh, Mẹ của Lòng Thương Xót. Từ nhỏ Faustina đã nổi bật về đức tin, lòng mộ đạo và sự vâng lời. Faustina thường lặp đi lặp lại lời này: “Nơi Chúa Giêsu có tất cả sức mạnh của tôi.”
Tên phim gốc: Faustina.
Đạo diễn: Jerzy Lukaszewicz.
Diễn viên chính: Dorota Segda, Danuta Szaflarska, Agnieszka Czekanska, Stanislawa Celinska, Miroslawa Dubrawska.
Sản xuất: Polska S.A.
Quốc gia: Ba Lan.
Năm phát hành: 1995, DVD 2004.
Thời lượng: 72 phút.
Tên phim gốc: Faustina.
Đạo diễn: Jerzy Lukaszewicz.
Diễn viên chính: Dorota Segda, Danuta Szaflarska, Agnieszka Czekanska, Stanislawa Celinska, Miroslawa Dubrawska.
Sản xuất: Polska S.A.
Quốc gia: Ba Lan.
Năm phát hành: 1995, DVD 2004.
Thời lượng: 72 phút.
ღ ღ ღ † † †-Ngài Gọi Con-ღ ღ ღ † † †-Thánh Agatha
THÁNH AGATHA
Được sinh ra trong một gia đình đạo đức, thế giá tại Sicily. Thánh nhân ngay từ nhỏ đã khấn giữ mình đồng trinh, hiến trọn cuộc đời cho Thiên Chúa. Các chị của thánh nữ là Anê, Lucia và Cécilia đều đã được phước tử vì đạo dưới thời bạo vương Đêciô, năm 251. Thánh Agatha chỉ có một chí hướng là hiến toàn thân của mình cho Thiên Chúa để Chúa định liệu cuộc đời của mình. Trong những người say mê Agatha có quan trấn Quintain, hắn muốn cưới và chiếm đoạt luôn tài sản của Agatha. Vì đã khấn hứa giữ mình đồng trinh, thánh nhân đã từ khước lời cầu hôn của quan trấn Quintian. Quá tức giận trước đề nghị của mình bị từ chối, quan trấn Sicily đã lợi dụng sắc lệnh bắt đạo của hoàng đế Decius, hắn bắt giam Agatha và đem ra xử án.
Trước tòa, Agatha đã can đảm xưng danh Chúa Kitô và cầu nguyện: “Lạy Chúa Giêsu Kitô, Ngài là Chúa của con, Chúa biết con yêu Chúa, Chúa biết những ước muốn của con. Xin Chúa nhận lấy con, là chiên của Chúa, xin giúp con chiến thắng quỷ dữ.” Quan trấn Quintain tức giận chất vấn thánh Agatha: “Ngươi thuộc dòng giỏi quý phái. Sao người lại hạ mình xuống làm một người Kitô hữu tầm thương?” “-Dù tôi là người quý phái, tôi chỉ là một người nô lệ của Chúa Giêsu.” Quan tòa hỏi: “Như vậy quý phái nghĩa là gì?” Thánh Agatha mạnh dạn trả lời: “Người quý phái là người biết thờ phượng Thiên Chúa.” Theo như lời truyền tụng thì Agatha bị Quintian giải giao vào chốn "lầu xanh" dưới sự hành hạ của Tú Bà Aphrodisia để cho mụ này và sáu đứa con gái đều là khách làng chơi hành hạ và dụ dỗ để làm nhục và mong Agatha thay đổi ý mà tùng phục hắn. Bà chỉ biết van xin Chúa chỡ che. Quintian đã thất bại trước ý chí cương quyết theo Chúa Giêsu đến cùng của Agatha.
Lần thứ hai hắn đem Agatha ra hành hạ bằng cách bưộc Agatha vào con ngựa gỗ dùng roi có móc sắt mà đánh, giứt từng mảng thịt ở cạnh sườn bà, dùng đuốc và diêm quẹt đốt da thịt bà, cuối cùng hắn ra lệnh xẻo vú của Agatha. Agatha đã trả lời với tên quan tòa gian ác như sau: “Hởi con người tàn ác, ngươi quên mẹ ngươi rồi sao, quên những núm vú đã cho ngươi bú mớm mà ngươi dám làm điều gian ác như vậy sao?” Tức giận, hắn cấm không ai được dùng thuốc men chữa chạy cho Agatha nhưng Thiên chúa yêu thương thánh nữ, sai thánh Phêrô đêm hôm ấy đến ngục thất chữa lành cho thánh nữ Agatha. Thánh nhân dù nhiều lần bị quan trấn dụ dỗ, trấn áp, tra tấn dã man, vẫn một mực trung kiên với Thiên Chúa. Tức giận, quan trấn càng đàn áp, hạ lệnh nướng sống trần truồng thánh nhân trên giường sắt, đau đớn quằn quại và dùng mảnh chai nhọn bắt thánh nữ lăn lộn trên đó.
Trong lúc đó một cơn động đất dữ dội làm sụp đổ tất cả thành phố. Agatha cám ơn Chúa đã đến nâng đỡ với lời cầu nguyện cuối cùng: “Lạy Chúa Ðấng đã ban cho con sự sống, Chúa đã giữ gìn con từ lúc nằm nôi, Chúa đã đem con ra khỏi thế gian và giúp con chịu đựng đau khổ. Xin Chúa nhận lấy linh hồn con.” Rồi thánh Agatha từ từ ngất lịm đi và lià khỏi cuộc đời.
CHÚA THƯỞNG CÔNG THÁNH NỮ: Bị nhốt trong ngục tù, bị hành hạ trăm bề, thánh nữ đã trút hơi thở cuối cùng vào ngày 5/2/251. Thiên Chúa đã thưởng công thánh nhân bằng muôn vàn phép lạ. Phép lạ lạ lùng là thánh nữ đã che chở thành Catana khỏi hiểm họa núi lửa Eùtna. Dân chúng rất sùng kính thánh nữ ngay từ thời đó. Thánh nữ đã cầu thay nguyện giúp cho dân được muôn vàn ơn phúc. Hội Thánh thưởng công Ngài bằng cách cho tôn kính thánh nữ vào ngày 5/2 mỗi năm. Ngài được coi là quan thầy của xứ Palermo và Catania. St.
(Phỏng theo bài viết của Phó tế JB Huỳnh Mai Trác)
Kinh Cầu Cùng Thánh Agatha
Lạy Cha trên trời, Ngài đã nâng thánh Agatha lên phẩm vị các thánh. Nhờ lời cầu bầu thánh nữ, xin Ngài ban cho chúng con sức mạnh tâm trí, thân xác và linh hồn. Xin giải thoát chúng con khỏi những điều đang trói buộc chúng con nơi trần gian này, để thần trí chúng con, giống như thần trí thánh nữ bay lên tận ngai tòa Chúa, thờ lạy và tôn vinh Thiên Chúa. Chúng con cầu xin nhờ Danh Chúa Giêsu Kitô, Con Chúa, Đấng hằng sống, hằng trị với Ngài đến muôn thuở muôn đời. Amen.
ღ ღ ღ † † †-Ngài Gọi Con-ღ ღ ღ † † †-Thánh Antôn Padua
THÁNH ANTÔN PAĐUA, (St. Anthony of Padua)
Linh mục, tiến sĩ Hội Thánh, ngày 13/6
“ Muôn dân tường thuật sự khôn ngoan của các thánh, và Giáo Hội loan truyền lời ca tụng các Ngài: tên tuổi các Ngài sẽ muôn đời tồn tại”( Hc 44, 14-15 ).Thánh Antôn Pađua qua đời mới có 36 tuổi, nhưng Ngài đã nổi tiếng về nhân đức ,phép lạ và những tư tưởng của Ngài.
MỘT LÝ TƯỞNG. MỘT CUỘC ĐỜI :
Thánh Antôn Pađua được sinh ra trong một gia đình quyền quí, đạo đức và thánh thiện tại Lisbone thủ đô nước Bồ Đào Nha vào năm 1195. Thánh nhân được hấp thụ một nền giáo dục đạo đức và đầy bác ái, nên Ngài sớm nhận ra tiếng Chúa mời gọi. Thánh nhân xin gia nhập Dòng thánh Augustinô và được nhà Dòng, Bề Trên cho lãnh nhận sứ vụ linh mục. Tuy nhiên, thánh nhân thích sống chiêm niệm, sống khắc khổ, khiêm tốn, Ngài ước muốn được đi truyền giáo cho dân ngoại và mong muốn được chết tử vì đạo, chính vì thế thánh nhân xin gia nhập Dòng anh em hèn mọn Phanxicô vào năm 1220. Thánh nhân cầu được ước thấy vì các Bề Trên chấp nhận lời cầu xin của Ngài, sai Ngài đi truyền giáo cho thổ dân Sarrasins bên Phi Châu. Nhưng ý Chúa thật nhiệm mầu, thánh nhân khi vừa tới Phi Châu đã ngã bệnh nặng và phải quay trở về chữa bệnh. Trên đường về lại quê hương, tầu của Ngài bị bão đánh dạt vào đảo Sicile thuộc nước Ý Đại Lợi, Ngài tới cư ngụ tại nhà Dòng ở Monte Paulo.
CÁI TÀI CHÚA BAN CHO THÁNH NHÂN:
Nhờ tài lợi khẩu, nhờ gương sáng đạo đức và thánh thiện, Ngài được các Bề Trên tin tưởng, tín nhiệm sai đi giảng khắp nơi và lo công việc đào tạo, giáo dục các tu sĩ trong Dòng. Chúa ban sức mạnh cho thánh nhân, Chúa Thánh Thần luôn tác động tâm hồn thánh nhân, nên lời giảng của Ngài luôn luôn có sức thu hút, lôi cuốn nhiều người. Chúa củng cố lời giảng của thánh Antôn Pađua bằng nhiều phép lạ kèm theo. Thánh nhân đã có ảnh hưởng rất lớn tại Ý, tại Pháp, thánh nhân làm việc không mệt mỏi, không ngơi nghỉ. Ngài được đặt tên là “ Hòm Bia Giao Ước” và “ Cái búa của bọn lạc giáo” đúng như lời sách thánh:” Các hiền sĩ sẽ chói lọi như bầu trời rực rỡ, những ai làm cho muôn người nên công chính, sẽ chiếu sáng như những vì sao, đến muôn thuở muôn đời”( Đn 12, 3 ).
CHÚA THƯỞNG CÔNG THÁNH ANTÔN PAĐUA:
Bông hoa tươi đẹp, Chúa ngắt về với Ngài để thánh nhân sống bên Chúa ngày 13 tháng 6 năm 1231. Thánh nhân ra đi trong an bình, trở về với Chúa khi Ngài mới tròn 36 tuổi. Thánh nhân rất nổi tiếng về các nhân đức và các phép lạ Ngài đã làm. Năm 1946, Đức Giáo Hoàng Piô XII đã tôn phong thánh Antôn Pađua làm tiến sĩ Hội Thánh.
“Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa đã ban cho dân Chúa một nhà giảng thuyết lừng danh và cũng là người cứu giúp những ai nghèo khổ, đó là thánh linh mục Antôn. Xin nhận lời thánh nhân chuyển cầu, cho chúng con biết trung thành tuân giữ giáo huấn của Đức Kitô, để được nâng đỡ trong những lúc ngặt nghèo”
( Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Antôn Pađua ).
Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
♪♪♪ Ngài Gọi Con ♪♪♪ - Kiếp này ốm yếu ngu đần là vì nhân duyên gì?
Con người sống trên thế gian, vì sao mỗi người một vẻ, có người khỏe mạnh, người ốm yếu, có kẻ trí tuệ, kẻ ngu đần? Kỳ thực, hết thảy đều là do nhân duyên đã gieo từ kiếp trước…
Một hôm, Đức Phật nói với đệ tử A Nan (Ananda) của ngài: “Ta nhìn vạn vật trong trời đất, từng thứ từng thứ đều là có nhân duyên kiếp trước của nó”.
A Nan gặp đúng dịp Đức Phật nói chuyện về vấn đề này liền vội vàng quỳ lạy và hỏi ngài: “Thưa ngài, là nhân duyên gì ạ? Tất cả đệ tử chúng con đều muốn biết. Con xin ngài hãy thuyết giảng để khai mở và hóa độ những người còn u mê ạ!”.
Đức Phật liền nói với A Nan: “Thiện tai, thiện tai! Con hãy chuyên tâm nghe nhé!”.
1. Người kiếp này được làm đại thần quốc vương, địa vị cao quý, có quyền có thế đều là người mà kiếp trước lễ phép và kính trọng Phật, Pháp, Tăng mà đến.
2. Người kiếp này là đại phú hào thì kiếp trước đều là những người từng bố thí, cứu tế rất nhiều.
3. Người kiếp này sống thọ mà không bị bệnh tật, thân thể khỏe mạnh đều là người kiếp trước luôn giữ vững giới cấm.
4. Người lớn lên đoan chính, trắng ngần, mặt mày rạng rỡ, thân thủ mềm mại, tỏa ra mùi hương thơm mát, ai đều quý mến, là kết quả của kiếp trước đã tu nhẫn nhịn.
5. Người có cá tính điềm đạm, bình tĩnh không hấp tấp, ngôn ngữ và hành vi đều thận trọng, cẩn thận là kết quả của việc kiếp trước tu thiền định.
6. Người có tài, minh bạch lý lẽ, thông suốt Pháp lý, có thể nói được đạo lý một cách thông thuận giúp cho những người “ngốc nghếch” nghe và hiểu được. Người khác nghe những lời mà người này nói đều thụ nhận được lợi ích, trân quý nó, vì vậy mà tự động truyền rộng ra ngoài cho nhiều người hơn nữa được biết. Đây là người tu trí tuệ mà đến.
7. Người có giọng nói trong và rõ ràng là người đến từ Tam bảo ca hát (“Tam bảo” là là chỉ Phật, Pháp, Tăng).
8. Người từ nhỏ đã ngốc nghếch là do kiếp trước không muốn dạy dỗ, chỉ bảo người khác.
9. Làm người ở, nô lệ cho người khác là vì kiếp trước thiếu nợ không trả người ta.
10. Người có địa vị thấp kém là bởi vì kiếp trước không lễ phép và kính trọng Tam bảo (Phật, Pháp, Tăng).
….
Đức Phật trầm ngâm một lát rồi nói tiếp: “Tội và phúc báo đi theo con người như hình với bóng. Con người bồi dưỡng đức cũng giống như gieo một hạt giống vậy”.
A Nan nói: “Hạt giống ban đầu chỉ là một hạt, sau khi được gieo trồng thành cây, lớn lên lại ra rất nhiều hạt khác”.
Đức Phật lại nói: “Chỉ bố thí, cho đi một hạt mà lại thu về gấp hàng vạn lần. Những lời này tuyệt không phải giả!”.
“Con người thế gian ngốc nghếch, không hiểu biết chỉ có thể dùng con mắt thịt này để quan sát hết thảy mà không thấu triệt gốc rễ của nghiệp và phúc báo.
Ta dùng đạo nhãn quan sát rất nhiều kiếp từ trước đến nay, mãi cho đến cả tội, phúc báo của chúng sinh hôm nay đều rõ ràng như quan sát trân bảo lưu ly trong lòng bàn tay vậy. Hết thảy đều minh thấu không có bất kỳ điểm nào là nghi hoặc cả!”.
Một hôm, Đức Phật nói với đệ tử A Nan (Ananda) của ngài: “Ta nhìn vạn vật trong trời đất, từng thứ từng thứ đều là có nhân duyên kiếp trước của nó”.
A Nan gặp đúng dịp Đức Phật nói chuyện về vấn đề này liền vội vàng quỳ lạy và hỏi ngài: “Thưa ngài, là nhân duyên gì ạ? Tất cả đệ tử chúng con đều muốn biết. Con xin ngài hãy thuyết giảng để khai mở và hóa độ những người còn u mê ạ!”.
Đức Phật liền nói với A Nan: “Thiện tai, thiện tai! Con hãy chuyên tâm nghe nhé!”.
1. Người kiếp này được làm đại thần quốc vương, địa vị cao quý, có quyền có thế đều là người mà kiếp trước lễ phép và kính trọng Phật, Pháp, Tăng mà đến.
2. Người kiếp này là đại phú hào thì kiếp trước đều là những người từng bố thí, cứu tế rất nhiều.
3. Người kiếp này sống thọ mà không bị bệnh tật, thân thể khỏe mạnh đều là người kiếp trước luôn giữ vững giới cấm.
4. Người lớn lên đoan chính, trắng ngần, mặt mày rạng rỡ, thân thủ mềm mại, tỏa ra mùi hương thơm mát, ai đều quý mến, là kết quả của kiếp trước đã tu nhẫn nhịn.
5. Người có cá tính điềm đạm, bình tĩnh không hấp tấp, ngôn ngữ và hành vi đều thận trọng, cẩn thận là kết quả của việc kiếp trước tu thiền định.
6. Người có tài, minh bạch lý lẽ, thông suốt Pháp lý, có thể nói được đạo lý một cách thông thuận giúp cho những người “ngốc nghếch” nghe và hiểu được. Người khác nghe những lời mà người này nói đều thụ nhận được lợi ích, trân quý nó, vì vậy mà tự động truyền rộng ra ngoài cho nhiều người hơn nữa được biết. Đây là người tu trí tuệ mà đến.
7. Người có giọng nói trong và rõ ràng là người đến từ Tam bảo ca hát (“Tam bảo” là là chỉ Phật, Pháp, Tăng).
8. Người từ nhỏ đã ngốc nghếch là do kiếp trước không muốn dạy dỗ, chỉ bảo người khác.
9. Làm người ở, nô lệ cho người khác là vì kiếp trước thiếu nợ không trả người ta.
10. Người có địa vị thấp kém là bởi vì kiếp trước không lễ phép và kính trọng Tam bảo (Phật, Pháp, Tăng).
….
Đức Phật trầm ngâm một lát rồi nói tiếp: “Tội và phúc báo đi theo con người như hình với bóng. Con người bồi dưỡng đức cũng giống như gieo một hạt giống vậy”.
A Nan nói: “Hạt giống ban đầu chỉ là một hạt, sau khi được gieo trồng thành cây, lớn lên lại ra rất nhiều hạt khác”.
Đức Phật lại nói: “Chỉ bố thí, cho đi một hạt mà lại thu về gấp hàng vạn lần. Những lời này tuyệt không phải giả!”.
“Con người thế gian ngốc nghếch, không hiểu biết chỉ có thể dùng con mắt thịt này để quan sát hết thảy mà không thấu triệt gốc rễ của nghiệp và phúc báo.
Ta dùng đạo nhãn quan sát rất nhiều kiếp từ trước đến nay, mãi cho đến cả tội, phúc báo của chúng sinh hôm nay đều rõ ràng như quan sát trân bảo lưu ly trong lòng bàn tay vậy. Hết thảy đều minh thấu không có bất kỳ điểm nào là nghi hoặc cả!”.
♪♪♪ Ngài Gọi Con ♪♪♪ - Đấng Mesia - Đấng Yêu Thương Phục Vụ.-Nguyện Ngắm theo PP Xuân Bích
BÀI NGUYỆN NGẮM
Thứ Tư, tuần III MÙA VỌNG – Lời Chúa: Lc 7, 18-23.
“Thầy có thật là Đấng phải đến không?”
I/ CHUẨN BỊ
a. Chuẩn bị gần
- Đề tài: Đấng Mesia - Đấng Yêu Thương Phục Vụ.
- Xác định những điểm sẽ nhìn ngắm:
- Nhìn ngắm Chúa Giê-su là Con Thiên Chúa, người được Chúa Cha sai xuống thế làm người để dẫn dắt loài người ra khỏi chốn tăm tối và muôn vàn tội lỗi.
- Nhìn ngắm vị Chúa Giê-su là vị Vua cao cả sắp đến - đã lấy tình yêu thương không biết mệt mỏi của Thiên Chúa mà tha thứ, chữa lành mọi bệnh tật cho trần gian về thân xác cũng như tâm hồn.
=> Với lòng nhân hậu của Chúa Giê-su ta học hỏi được gì và đã hành động như thế nào?
=> Chúng ta có cảm nhận như thế nào về những điều người đã làm cho ta?
Và đặc biệt tôi – là một người bước theo chân Chúa, tôi hãy nhìn lại mình, qua những việc làm hằng ngày, tôi có noi gương vị Vua cao cả đó mà yêu thương phục vụ anh em mình không? Hay tôi vẫn còn có những mối bất hòa, gây chia rẽ với anh em?
- Ơn xin: Xin Chúa cho chúng ta noi gương Đấng Mesia biết lấy tình yêu thương bác ái mà đối xử với nhau, mong sao hình ảnh của Đấng Cứu Độ hiện diện trong mỗi người anh em chúng ta.
b. Chuẩn bị rất gần:
Lạy Chúa, chúng con tin thật Chúa đang ngự trong lòng chúng con, nhất là qua Bí tích Thánh Thể, là Bí tích vô cùng cao trọng mà Chúa vừa ban cho mỗi người chúng con. Chúng con thờ lạy Chúa, chúng con ca ngợi, chúng con cảm tạ Chúa vì bao hồng ân Chúa đã ban cho chúng con.
Lạy Chúa, xin Chúa cũng thứ tha tội lỗi cho chúng con, miệng lưỡi chúng con không xứng đáng để ca tụng Chúa, bởi chúng con là những kẻ tội lỗi, mỏng dòn, yếu đuối đã nhiều lần làm mất lòng Chúa. Giờ đây, trước mặt Chúa, chúng con ao ước được nhìn ngắm Chúa một cách kĩ càng hơn, được lắng nghe tiếng Chúa trong tâm hồn của mỗi người. Xin Ngôi Ba Thiên Chúa đốt lửa sốt mến trong lòng chúng con để chúng con có được ít phút nguyện ngắm này thật sốt sắng.
II. NGUYỆN NGẮM
1. Thờ lạy:
Lạy Chúa Giê-su, Ngài là Vua cao cả và là Chúa tể của mọi loài thụ tạo, nhưng Ngài đã vâng lời Thiên Chúa Cha và đã xuống thế mang lấy thân phận con người như chúng con, Ngài đã dùng lòng nhân hậu vô biên của mình mà dẫn dắt chúng con ra khỏi chốn tối tăm của tội lỗi. Với quyền năng của mình Ngài đã tỏ bày cho chúng con thấy Thiên Chúa yêu thương loài người đến dường nào.
Với tình thương cao cả dành cho loài người và quyền năng Đấng Tối Cao, Ngài còn chữa lành mọi bệnh tật cho muôn dân, bệnh tật về thân xác cũng như tâm hồn: người mù được thấy, kẻ què đi được, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống dậy…
Chúa Giê-su đã chữa bệnh cho con trai của một quan cận về thành Ca-phác-na-um. “Ông cứ về đi, con ông sống” (Ga 5,50). Hay Ngài đã chữa lành cho mọi kẻ đau ốm, đuôi mù, què quặt nằm la liệt ở hồ nước tại Bết-da-tha. “Anh hãy trỗi dậy, vác chõng mà đi” (Ga 5, 8). Người ấy liền được khỏi bệnh, vác chõng và đi được. Vị Vua trời đất cao cả mà phải làm những việc này sao ?. Đến nỗi trong bài Tin Mừng hôm nay, các môn đệ ông Gio-an phải ngạc nhiên mà thốt lên rằng: “ Thầy có thật là Đấng phải đến không?”
Đấng Mesia, vị Vua sắp đến, phải ngồi trên ngài vàng mà đến chứ ? Chúa Giê-su đã đến và đã mạc khải lòng thương xót của Đấng Quyền Năng, chính Chúa Giê-su đã làm chứng cho tình thương của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Đỉnh điểm là Chúa Giê-su đã dùng tình yêu vĩ đại của Đấng Tối Cao mà tha thứ tội lỗi cho loài người, tha thứ cho người đàn bà ngoại tình, “Này đây, Ta tha tội cho con” tha thứ tội lỗi cho kẻ trộm lành, đến nỗi Viên Đội Trưởng phải thốt lên rằng: “Ngài chính là Con Thiên Chúa”. Con Thiên Chúa – Đấng Nhân Hậu-Yêu Thương-Phục vụ.
Ôi lạy Chúa, Chúa đã yêu chúng con, sống giữa chúng con và làm chứng cho tình thương bao la của Đức Chúa Cha! Hơn thế nữa, Chúa đã trao vào lòng chúng con một hơi thở mới- đó là hãy can đảm ra đi, thể hiện mình là một môn đệ biết yêu thương phục vụ như chính Đức Giê-su đã nêu gương cho chúng con.
2. Hiệp thông
Chúa ơi!Chúa đã chấp nhận từ bỏ tất cả kể cả mạng sống của mình để cứu độ chúng con và nêu gương cho chúng con về sự yêu thương, phục vụ của Chúa, vì Chúa luôn muốn mỗi người chúng con ngày hôm nay “Hãy yêu thương nhau như chính Thầy đã yêu thương anh em” .
Ngài đã đến dạy cho chúng con biết sống yêu thương, tha thứ, sẻ chia bác ái, Ngài muốn chúng con có một tấm lòng nhân hậu, chúng con đã thấy điều ấy nơi Ngài qua hình ảnh người cha vui mừng chào đón khi người con quay về trong dụ ngôn người cha nhân lành hay người chăn chiên đã đi tìm con chiên lạc mang về , và lòng nhân hậu của Chúa còn được thể hiện qua việc Ngài dùng quyền phép để hóa phép 5 chiếc bánh và ít cá cho đoàn dân của Người được no thỏa lòng hay khi họ đang đói khát chạy đến bên Ngài để mong mỏi được chữa lành bệnh tật.
Nhưng lạy Chúa, nhìn lại mỗi người chúng con, chúng con thật xấu hổ dường nào.
Chúng con là những người Ki-tô hữu, đặc biệt chúng con là những người bước theo chân Chúa, vậy mà chúng con đã làm méo mó đi hình ảnh của Chúa – hình ảnh của Đấng Yêu Thương. Lẽ ra, chúng con phải noi gương Chúa Giê-su, sống một cuộc đời yêu thương, phục vụ, làm chứng cho tình yêu của Chúa.
Cách riêng, hằng ngày trong gia đình TCV này, chúng con – những người cùng chung một niềm tin, một chí hướng, vậy mà chúng con chưa thể yêu thương nhau, phục vụ, giúp đỡ, san sẻ nhau trong công việc hằng ngày. Anh em trong nhà còn chưa thương, thử hỏi làm sao để chúng con yêu thương một ai khác . Nhìn lại mình, chúng con xấu hổ lắm Chúa ơi.
Chúng con thành thật xin lỗi Chúa vì sự vô tâm, thiếu tình cảm của chúng con.
Xin Chúa cho chúng con hiểu được lòng Chúa yêu thương chúng con từng giây phút trong cuộc đời, để chúng con biết quảng đại, bác ái đem tình thương đó đến với anh em con.
3. Hợp tác
Cách cụ thể, xin Chúa đồng hành, dõi theo chúng con trong ngày sống hôm nay và giúp con thực hiện một hành vi bác ái, yêu thương cụ thể là: Hỏi thăm, giúp đỡ anh em bằng 1 việc làm cụ thể.
Xin Chúa Thánh Thần soi sáng, đốt lửa mến yêu và hướng dẫn cho dốc lòng của chúng con để ngày sống hôm nay sẽ là ngày đẹp lòng Chúa hơn bao giờ hết.
III. Kết thúc.
Lạy Chúa, xin tạ ơn Chúa đã cho chúng con có được ít phút nguyện ngắm tùy ngắn ngủi nhưng thật sốt sắng, tuy vậy nhưng chắc không ít lần trong thời gian này, chúng con không tránh khỏi lo ra, chia trí cũng như ngủ gật. Xin Chúa thương tha thứ và ban ơn cho mỗi người chúng con được sốt sắng hơn lần nguyện ngắm tiếp theo.
Xin Mẹ Maria thương cầu bầu cùng Chúa cho chúng con, để chúng con biết mở rộng tâm hồn, yêu thương phục vụ anh em con hết mình.
Bó hoa thiêng liêng, xin anh em lặp lại trong ngày câu lời Chúa: “Hãy yêu thương anh em như chính Thầy đã yêu thương anh em”.
Kinh trông cậy:
Chúng con trông cậy rất thánh đức mẹ chúa trời, xin chớ chê chớ bỏ lời chúng con nguyện, trong cơn gian nan thiếu thốn, Đức Nữ đồng trinh hiển vinh sáng láng hằng chữa chúng con cho khỏi sự dữ amen
Lạy Rất Thánh Trái Tim Đức Chúa Giê-su - Thương xót chúng con
Lạy trái tim cực thanh cực tịnh rất Thánh Đức bà Maria – Cầu cho chúng con
Lạy ông Thánh Giu-se là bạn thanh sạch Đức bà Maria trọn đời đồng trinh - Cầu cho chúng con
Lạy các Thánh Tử đạo Việt Nam – Cầu cho chúng con.
♪♪♪ Ngài Gọi Con ♪♪♪ - Anh là của Người
ANH LÀ CỦA NGƯỜI
Lòng dặn lòng xin đừng nhớ đến anh
Đừng quặn đau vì những điều xưa cũ
Thôi chờ mong và hãy đừng ấp ủ
Rằng một ngày ta sẽ gặp lại nhau
Vết thương lòng sao cứ mãi còn đauRằng một ngày ta sẽ gặp lại nhau
Cứ thổn thức vì em không níu giữ
Cứ hối tiếc nếu ngày xưa níu giữ
Có lẽ giờ này ta đã thành đôi
Giá ngày xưa em gạt bớt cái tôi
Lao về anh và ôm anh thật chặt
Giá ngày xưa em biết dùng nước mắt
Níu chân anh đi về phía có em
Giá ngày xưa em hãy cứ yếu mềm
Không sống được nếu như anh rời bỏ
Giá ngày xưa đừng gồng mình chứng tỏ
Có lẽ giờ này ta chẳng mất nhau
Có lẽ giờ này ta thuộc về nhau
Nhưng dẫu sao cũng chỉ là… có lẽ
Bởi níu giữ, câu hỏi ngầm thỏ thẻ
Có thật giờ này, anh thuộc về em?
Một câu hỏi, em trăn trở nhiều đêm
Níu giữ anh hay để cho Người ấy
Em biết, anh yêu em, là có đấy
Nhưng tình yêu cho Người ấy phần hơn
Vừa mới chào đời anh đã chịu ơn
Của Người ấy suốt từ thời tấm bé
Rồi đến khi anh thành chàng trai trẻ
Người gọi mời anh, ở lại với Người.
Ở bên em, anh hiếm những nụ cười
Lòng nặng ưu tư, mắt nhìn vô định
Cả con tim, cả tấm lòng thành kính
Cả tâm hồn anh trao trọn nơi Người
Nói thật là, em từng rất ghét Người
Em cố giành lấy anh từ Người ấy
Nhưng nhìn vào mắt anh, em nhận thấy
Hạnh phúc đời anh là được cạnh Người
Em hiểu rằng số phận mỗi con người
Được sắp xếp, được an bài bởi Chúa
Như anh sinh ra là người của Chúa
Là sống hiến dâng, là phụng sự Ngài
Chúng mình gặp nhau là để rẽ hai
Để nhớ nhung, để trở thành kỷ niệm
Để cho em mãi không ngừng hoài niệm
Một tình yêu không níu giữ về mình
-Dịu Hiền-
……………………………..
Người con gái hy sinh tình riêng vì lý tưởng của người con trai…Người con gái ấy thật đáng nễ trọng.
Người con trai hy sinh tình mình để dâng Chúa trọn vẹn xác hồn…Người con trai ấy thật đáng khâm phục…
Saturday, April 23, 2016
.†.Ngài Gọi Con.†.- Văn hóa ơn gọi
Chắc hẳn nhiều người lớn Công giáo còn nhớ về giáo xứ và trường học do các linh mục và tu sĩ điều hành. Điều này không phổ biến ở Bắc Mỹ. Thanh thiếu niên Công giáo lớn lên ít có kinh nghiệm hoặc không có kinh nghiệm như người tu trì (linh mục hoặc tu sĩ). Ngày nay, thách đố của chúng ta là tạo một văn hóa ơn gọi tại gia đình, nhà thờ và trường học để ĐỘNG VIÊN và GIÚP ĐỠ thanh thiếu niên đáp lại tiếng Chúa gọi. Ngoài việc nuôi dưỡng đời sống hôn nhân và đời sống độc thân, các gia đình và các giáo xứ làm sao nuôi dưỡng ơn gọi làm linh mục và tu sĩ?
HỌ Ở ĐÂU?
Có nhiều lý do để giao tiếp với các tu sĩ và linh mục, nhưng ngày nay có vẻ ít có cơ hội. Ơn gọi tu trì giảm sút ở nhiều nơi. Thập niên 1960, sau Công đồng Vatican II, Giáo hội đã có kinh nghiệm về sự canh tân. Sau đó, giáo dân được “chú ý” hơn và có thể là người lãnh đạo ở các trường học, bệnh viện và giáo xứ, cũng có nhiều tu sĩ biết dấn thân hơn trong việc phục vụ người nghèo, người bệnh, và người già. Ngày nay, ơn gọi thiếu, có thể có nhiều lý do. Ngoài ba lời khấn (vâng lời, nghèo khó, khiết tịnh), có dòng tu còn thêm các lời khấn khác, đồng thời còn phải biết lắng nghe lời mời gọi phục vụ vô điều kiện. Nhiều tu sĩ nói rằng họ có thể đi tới bất cứ nơi nào theo nhu cầu và vâng lời bề trên, có thể làm mọi thứ vì yêu mến Đức Kitô. Ngày nay, mặc dù ơn gọi giảm sút, nhưng vẫn có những người theo tiếng gọi của Chúa Giêsu để sống lời khuyên Phúc Âm mà phục vụ những người đau khổ: vô gia cư, trẻ em mồ côi, bệnh nhân HIV/AIDS, phong cùi,... Sự tự nguyện của họ nâng đỡ những người nghèo khổ nhất, vì đức ái Kitô giáo: “Tình yêu Đức Kitô thôi thúc chúng tôi” (2 Cr 5:14).
LÝ DO
Xuyên suốt lịch sử Giáo hội, số linh mục và tu sĩ vẫn tăng dù có những lúc giảm sút. Những năm trước Công đồng Vatican II là “thời hoàng kim” về ơn gọi. Trong mọi thời, luôn có những người cảm nghiệm lời mời gọi của Thiên Chúa và quảng đại đáp lại.
Đặc tính nào cần có đối với các linh mục và tu sĩ? Ai có thể sống theo các lời khuyên Phúc Âm? Họ cần có sức khỏe tốt về thể lý và tâm thần để phục vụ và trung thành với Đức Kitô. Lời hứa là khả năng giữ các giá trị như sống độc thân, sống giản dị và sẵn sàng hy sinh vì mục đích chung. Linh mục và tu sĩ ngày nay cần linh động để thích nghi với những cách thay đổi của Giáo hội và thời đại. Cuối cùng, những người theo tiếng gọi làm linh mục, làm phó tế vĩnh viễn hoặc làm tu sĩ cần vượt qua những động thái tiêu cực bởi các vụ xì-căng-đan (bê bối) trong Giáo hội, những điều ảnh hưởng xấu tới ơn gọi. Có thể họ thiếu kinh nghiệm về việc sự khuyến khích của cha mẹ, gia đình và cộng đồng – kể cả các linh mục và tu sĩ.
NHẬN THỨC
Nghiên cứu cho thấy rằng cần phải gieo trồng và vun xới “hạt giống ơn gọi tu trì”. Nhận thức ơn gọi cần phải là phần căn tính của việc đào tạo đức tin cho giới trẻ ở bất cứ nơi nào. Sự ảnh hưởng quan trọng đối với việc thể hiện đức tin của giới trẻ phải khởi đầu từ cha mẹ. Từ việc chọn trường tới việc chọn nghề, sự ảnh hưởng của cha mẹ là chủ yếu. Thái độ của cha mẹ đối với ơn gọi tu trì như màn hình theo dõi, có thể xác định cách chọn lựa của giới trẻ. Nhận thức vấn đề là một quá trình tiệm tiến. Những người hướng dẫn ơn gọi phải cung cấp thông tin tổng quát giúp giới trẻ lắng nghe và đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa, ngay cả khi chúng được mời gọi theo hướng khác.
Chúng ta hãy nói về việc đào tạo ở chủng viện và dòng tu. Sự nhận thức tiếp tục trong vài năm trước khi được truyền chức linh mục hoặc khấn trọng (vĩnh thệ). Sự nhận thức đúng đắn giúp giới trẻ không lo sợ khi quyết định – dù đúng hay sai. Khi đi tu, vẫn có sự lo lắng tự nhiên của con người. Chúng ta cũng nên thoải mái với những người “ta-ru” (tu ra), gọi là tu xuất, vì chắc chắn Thiên Chúa đang sử dụng họ theo Thánh Ý Ngài mà chúng ta không thể biết được. Người ta vẫn có cái nhìn khắt khe với họ khiến họ khó vươn lên.
VĂN HÓA ƠN GỌI
Thế nào là “văn hóa ơn gọi” trong giáo xứ? Làm sao tiếp nhận giới trẻ? Có những “vật cản” làm nản lòng giới trẻ khi khám phá ơn gọi tu trì? Cần đào tạo thế nào để giáo dục giới trẻ? Đặt ra vấn đề này ở giáo xứ là điều đúng. Đây là niềm hy vọng đối với ơn gọi tu trì. Nhu cầu càng ngày càng nhiều, và Thiên Chúa vẫn luôn mời gọi mọi người mở rộng lòng đáp lại để có thể trở thành linh mục và tu sĩ. Giáo hội cần các bậc cha mẹ, các giáo dục viên, và mọi người cùng cộng tác, cùng khuyến khích giới trẻ dấn than vì Đức Kitô bằng cách trở nên linh mục, phó tế vĩnh viễn, và tu sĩ.
Cậu bé Samuel là tấm gương để chúng ta noi theo, vì cậu đã mau mắn đáp lại tiếng Chúa gọi trong đêm khuya: “Xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe” (1 Sm 3:10; x. Dt 10:7 & 9).
TRẦM THIÊN THU (Chuyển ngữ từ OblateVocations.com)
HỌ Ở ĐÂU?
Có nhiều lý do để giao tiếp với các tu sĩ và linh mục, nhưng ngày nay có vẻ ít có cơ hội. Ơn gọi tu trì giảm sút ở nhiều nơi. Thập niên 1960, sau Công đồng Vatican II, Giáo hội đã có kinh nghiệm về sự canh tân. Sau đó, giáo dân được “chú ý” hơn và có thể là người lãnh đạo ở các trường học, bệnh viện và giáo xứ, cũng có nhiều tu sĩ biết dấn thân hơn trong việc phục vụ người nghèo, người bệnh, và người già. Ngày nay, ơn gọi thiếu, có thể có nhiều lý do. Ngoài ba lời khấn (vâng lời, nghèo khó, khiết tịnh), có dòng tu còn thêm các lời khấn khác, đồng thời còn phải biết lắng nghe lời mời gọi phục vụ vô điều kiện. Nhiều tu sĩ nói rằng họ có thể đi tới bất cứ nơi nào theo nhu cầu và vâng lời bề trên, có thể làm mọi thứ vì yêu mến Đức Kitô. Ngày nay, mặc dù ơn gọi giảm sút, nhưng vẫn có những người theo tiếng gọi của Chúa Giêsu để sống lời khuyên Phúc Âm mà phục vụ những người đau khổ: vô gia cư, trẻ em mồ côi, bệnh nhân HIV/AIDS, phong cùi,... Sự tự nguyện của họ nâng đỡ những người nghèo khổ nhất, vì đức ái Kitô giáo: “Tình yêu Đức Kitô thôi thúc chúng tôi” (2 Cr 5:14).
LÝ DO
Xuyên suốt lịch sử Giáo hội, số linh mục và tu sĩ vẫn tăng dù có những lúc giảm sút. Những năm trước Công đồng Vatican II là “thời hoàng kim” về ơn gọi. Trong mọi thời, luôn có những người cảm nghiệm lời mời gọi của Thiên Chúa và quảng đại đáp lại.
Đặc tính nào cần có đối với các linh mục và tu sĩ? Ai có thể sống theo các lời khuyên Phúc Âm? Họ cần có sức khỏe tốt về thể lý và tâm thần để phục vụ và trung thành với Đức Kitô. Lời hứa là khả năng giữ các giá trị như sống độc thân, sống giản dị và sẵn sàng hy sinh vì mục đích chung. Linh mục và tu sĩ ngày nay cần linh động để thích nghi với những cách thay đổi của Giáo hội và thời đại. Cuối cùng, những người theo tiếng gọi làm linh mục, làm phó tế vĩnh viễn hoặc làm tu sĩ cần vượt qua những động thái tiêu cực bởi các vụ xì-căng-đan (bê bối) trong Giáo hội, những điều ảnh hưởng xấu tới ơn gọi. Có thể họ thiếu kinh nghiệm về việc sự khuyến khích của cha mẹ, gia đình và cộng đồng – kể cả các linh mục và tu sĩ.
NHẬN THỨC
Nghiên cứu cho thấy rằng cần phải gieo trồng và vun xới “hạt giống ơn gọi tu trì”. Nhận thức ơn gọi cần phải là phần căn tính của việc đào tạo đức tin cho giới trẻ ở bất cứ nơi nào. Sự ảnh hưởng quan trọng đối với việc thể hiện đức tin của giới trẻ phải khởi đầu từ cha mẹ. Từ việc chọn trường tới việc chọn nghề, sự ảnh hưởng của cha mẹ là chủ yếu. Thái độ của cha mẹ đối với ơn gọi tu trì như màn hình theo dõi, có thể xác định cách chọn lựa của giới trẻ. Nhận thức vấn đề là một quá trình tiệm tiến. Những người hướng dẫn ơn gọi phải cung cấp thông tin tổng quát giúp giới trẻ lắng nghe và đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa, ngay cả khi chúng được mời gọi theo hướng khác.
Chúng ta hãy nói về việc đào tạo ở chủng viện và dòng tu. Sự nhận thức tiếp tục trong vài năm trước khi được truyền chức linh mục hoặc khấn trọng (vĩnh thệ). Sự nhận thức đúng đắn giúp giới trẻ không lo sợ khi quyết định – dù đúng hay sai. Khi đi tu, vẫn có sự lo lắng tự nhiên của con người. Chúng ta cũng nên thoải mái với những người “ta-ru” (tu ra), gọi là tu xuất, vì chắc chắn Thiên Chúa đang sử dụng họ theo Thánh Ý Ngài mà chúng ta không thể biết được. Người ta vẫn có cái nhìn khắt khe với họ khiến họ khó vươn lên.
VĂN HÓA ƠN GỌI
Thế nào là “văn hóa ơn gọi” trong giáo xứ? Làm sao tiếp nhận giới trẻ? Có những “vật cản” làm nản lòng giới trẻ khi khám phá ơn gọi tu trì? Cần đào tạo thế nào để giáo dục giới trẻ? Đặt ra vấn đề này ở giáo xứ là điều đúng. Đây là niềm hy vọng đối với ơn gọi tu trì. Nhu cầu càng ngày càng nhiều, và Thiên Chúa vẫn luôn mời gọi mọi người mở rộng lòng đáp lại để có thể trở thành linh mục và tu sĩ. Giáo hội cần các bậc cha mẹ, các giáo dục viên, và mọi người cùng cộng tác, cùng khuyến khích giới trẻ dấn than vì Đức Kitô bằng cách trở nên linh mục, phó tế vĩnh viễn, và tu sĩ.
Cậu bé Samuel là tấm gương để chúng ta noi theo, vì cậu đã mau mắn đáp lại tiếng Chúa gọi trong đêm khuya: “Xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe” (1 Sm 3:10; x. Dt 10:7 & 9).
TRẦM THIÊN THU (Chuyển ngữ từ OblateVocations.com)